Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm do các nhà đầu tư tiếp tục lo ngại triển vọng nhu cầu dầu toàn cầu sẽ giảm sút.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 10/2020 giảm 14 US cent, xuống 41,37 USD/thùng, dầu Brent giao tháng 11/2020 giảm 36 US cent xuống 44,07 USD/thùng.
Theo báo cáo công bố ngày 3/9 của Viện Quản lý Nguồn cung, chỉ số nhà quản lý mua hàng (PMI) ngành dịch vụ Mỹ trong tháng 8/2020 đã giảm từ mức 58,1% trong tháng Bảy, xuống còn 56,9%, phản ảnh xu hướng tăng trưởng chậm. Trong khi đó, Bộ Lao động Mỹ cho biết số lượng đơn xin trợ cấp thất nghiệp mới ở Mỹ đã giảm xuống còn 881.000 đơn trong tuần kết thúc vào ngày 29/8, thấp hơn con số 1,01 triệu đơn ghi nhận trong tuần trước đó.
Theo số liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), dự trữ dầu thô của Mỹ trong tuần tính đến ngày 28/8 đã giảm 9,4 triệu thùng, lớn hơn nhiều so với mức dự báo giảm 1,2 triệu thùng của các nhà phân tích tham gia cuộc khảo sát của S&P Global Platts.
Bên cạnh đó, EIA cũng cho biết sản lượng khai thác dầu thô của Mỹ trong tuần qua đứng ở mức trung bình 9,7 triệu thùng/ngày, thấp hơn 1,1 triệu thùng so với tuần trước đó, trong bối cảnh cơn bão Laura đã làm nhiều cơ sở sản xuất và lọc dầu ở Vịnh Mexico phải đóng cửa.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm khi số liệu việc làm của Mỹ tốt hơn dự báo.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay giảm 0,6% xuống 1.930,24 USD/ounce, sau khi chạm mức thấp nhất 1 tuần (1.921,61 USD/ounce) trong đầu phiên giao dịch và vàng kỳ hạn tháng 12/2020 trên sàn New York giảm 0,4% xuống 1.937,8 USD/ounce. báo.
Các nhà giao dịch cũng đang bán vàng để bù vào thiệt hại do các chỉ số chứng khoán Mỹ giảm mạnh.
Về xu hướng trong thời gian tới, dự báo giá vàng nhận được sự hỗ trợ và chặn được đà giảm khi báo cáo của Bộ Thương mại Mỹ công bố ngày 3/9 cho thấy thâm hụt thương mại của nước này tăng 18,9%, lên 63,6 tỷ USD trong tháng Bảy.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 12/2020 giảm 52 US cent hay 1,9%, xuống 26,875 USD/ounce; bạch kim giao tháng 10/2020 giảm 14,5 USD, hay 1,6%, xuống 889,6 USD/ounce; palađi tăng 1,6% lên 2.282,9 USD/ounce, cao nhất kể từ ngày 31/3/2020.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do các nhà đầu tư bán ra chốt lời, mặc dù lo ngại nguồn cung suy giảm và nhu cầu ổn định. Kết thúc phiên giao dịch, đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 1,7% xuống 6.583 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất trong hơn 2 năm trong phiên trước đó (2/9/2020). Giá thiếc giảm 0,9% xuống 18.175 USD/tấn, trong phiên có lúc đạt 18.510 USD/tấn, cao nhất kể từ tháng 7/2019.
Đồng USD tăng cũng gây áp lực đối với thị trường kim loại, bởi khiến nhóm hàng hóa định giá bằng đồng USD này trở nên đắt hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Mặc dù giảm trong phiên vừa qua, song so với tháng 3/2020, giá đồng đã tăng khoảng 50%, chủ yếu do lo ngại về hạn chế nguồn cung và sự phục hồi trong lĩnh vực công nghiệp tại nước tiêu thụ kim loại hàng đầu – Trung Quốc.
Sản lượng đồng khai thác tại các nước sản xuất hàng đầu – Chile và Peru – được cải thiện. Công ty thuộc sở hữu nhà nước Codelco, Chile cho biết, sản lượng trong 7 tháng đầu năm 2020 tăng 2,3%.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng phiên thứ 6 liên tiếp và có chuỗi tăng dài nhất kể từ giữa tháng 5/2020, do nhu cầu nội địa tăng mạnh và tình trạng tắc nghẽn tại các cảng của nước này, đẩy giá quặng sắt giao ngay tăng. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2021 trên sàn Đại Liên tăng 0,9% lên 857,5 CNY (125,46 USD)/tấn, trong đầu phiên giao dịch đạt 874 CNY/tấn – mức cao kỷ lục; quặng sắt kỳ hạn tháng 10/2020 trên sàn Singapore tăng 5,8% lên 129 USD/tấn, tăng phiên thứ 5 liên tiếp; quặng sắt 62% nhập khẩu vào Trung Quốc trong phiên 2/9 tăng lên 126,5 USD/tấn, cao nhất kể từ tháng 1/2014. Giá thép cây trên sàn Thượng Hải tăng 0,5%, trong khi giá thép cuộn cán nóng giảm 0,3% và thép không gỉ giảm 2,3%.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương tăng lên mức cao nhất hơn 2 năm do Trung Quốc mua đậu tương Mỹ. Trong khi đó, giá ngô và lúa mì giảm.
Kết thúc phiên giao dịch, giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2020 tăng 4 US cent lên 9,66 USD/bushel, trong phiên có lúc đạt 9,68-1/4 USD/bushel, cao nhất kể từ tháng 6/2018; giá ngô kỳ hạn tháng 12/2020 giảm 5 US cent xuống 3,53-3/4 USD/bush; giá lúa mì kỳ hạn tháng 11/2020 giảm 5 US cent xuống 5,53-1/4 USD/bushel.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 12/2020 trên sàn New York giảm 0,1 US cent tương đương 0,1% xuống 1,312 USD/lb, sau khi đạt mức cao nhất 8 tháng (1,327 USD/lb) trong phiên trước đó; robusta kỳ hạn tháng 11/2020 trên sàn London giảm 4 USD tương đương 0,3% xuống 1.436 USD/tấn.
Tại Châu Á, giá cà phê tại Việt Nam giảm do nhu cầu suy giảm, trong khi Indonesia bước vào vụ thu hoạch mới đã kéo giá giảm. Cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) được chào giá cộng 90-100 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11/2020 trên sàn London, tăng so với mức cộng 80 USD/tấn cách đây 1 tuần. Cà phê nhân xô có giá dao động 33.500-34.000 VND (1,45-1,47 USD)/kg, giảm so với mức giá 34.000-34.500 VND/kg cách đây 1 tuần.
Xuất khẩu cà phê robusta của Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2020 giảm 1,3% so với tháng 8/2019 xuống 1,16 triệu tấn tương đương 19,3 triệu bao (60 kg).
Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 20-50 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 11/2020 trên sàn London, giảm so với mức cộng 140 USD/tấn cách đây 1 tuần, do nước này bắt đầu vào vụ thu hoạch mới.
Tổ chức Cà phê Quốc tế cho biết, xuất khẩu cà phê toàn cầu trong tháng 7/2020 giảm 11% so với tháng 7/2019 xuống 10,61 triệu bao, dự báo dư thừa 1 lượng nhỏ trong cán cân cung ứng toàn cầu niên vụ 2019/20.
Giá đường giảm xuống mức thấp nhất 1 tháng do đồng USD hồi phục và giá dầu giảm, khiến các quỹ thanh lý phần lớn các hàng hóa nông sản. Đường thô kỳ hạn tháng 10/2020 trên sàn ICE giảm 0,37 US cent tương đương 3% xuống 12,07 US cent/lb, trong phiên có lúc chạm mức thấp nhất 1 tháng (11,9 US cent/lb; đường trắng giao cùng kỳ hạn trên sàn London giảm 5,5 USD tương đương 1,5% xuống 353,6 USD/tấn.
Đồng USD tăng mạnh khiến đường được định giá bằng đồng USD đắt hơn so với các tiền tệ khác, trong khi giá năng lượng suy giảm khiến các nhà máy đường Brazil thúc đẩy sản lượng đường thay thế nhiên liệu ethanol sản xuất từ mía đường.
Chỉ số giá đường của Tổ chức Nông Lương Liên hợp quốc (FAO) trong tháng 8/2020 tăng 6,7% so với tháng trước đó, trong bối cảnh thời tiết bất lợi tại EU và Thái Lan, và nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc tăng mạnh.
Giá hàng hóa thế giới

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

41,08

-0,29

-0,70%

Dầu Brent

USD/thùng

44,07

-0,36

-0,81%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

29.920,00

-50,00

-0,17%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,47

-0,02

-0,68%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

120,00

-0,49

-0,41%

Dầu đốt

US cent/gallon

115,87

-0,90

-0,77%

Dầu khí

USD/tấn

334,50

-20,75

-5,84%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

42.620,00

-580,00

-1,34%

Vàng New York

USD/ounce

1.938,20

+0,40

+0,02%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.601,00

-20,00

-0,30%

Bạc New York

USD/ounce

26,72

-0,16

-0,60%

Bạc TOCOM

JPY/g

90,90

-1,50

-1,62%

Bạch kim

USD/ounce

892,34

+0,14

+0,02%

Palađi

USD/ounce

2.306,16

-0,81

-0,04%

Đồng New York

US cent/lb

296,70

-0,80

-0,27%

Đồng LME

USD/tấn

6.563,50

-133,50

-1,99%

Nhôm LME

USD/tấn

1.780,00

-6,00

-0,34%

Kẽm LME

USD/tấn

2.514,00

-19,50

-0,77%

Thiếc LME

USD/tấn

18.225,00

-123,00

-0,67%

Ngô

US cent/bushel

353,75

-5,00

-1,39%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

553,25

-5,00

-0,90%

Lúa mạch

US cent/bushel

272,50

-3,25

-1,18%

Gạo thô

USD/cwt

12,35

+0,06

+0,49%

Đậu tương

US cent/bushel

966,00

+4,00

+0,42%

Khô đậu tương

USD/tấn

312,80

+2,60

+0,84%

Dầu đậu tương

US cent/lb

33,29

-0,24

-0,72%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

503,70

+0,20

+0,04%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.634,00

-47,00

-1,75%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

131,20

-0,10

-0,08%

Đường thô

US cent/lb

12,07

-0,37

-2,97%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

118,55

+2,65

+2,29%

Bông

US cent/lb

64,28

-0,68

-1,05%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

670,50

-29,00

-4,15%

Cao su TOCOM

JPY/kg

139,30

-3,60

-2,52%

Ethanol CME

USD/gallon

1,31

0,00

0,00

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg