Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng mạnh sau thông tin tích cực về sức khỏe của Tổng thống Mỹ Donald Trump và 6 mỏ dầu và khí đốt ngoài khơi của Na Uy bị đóng cửa do nhiều công nhân bãi công
Kết thúc phiên này, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 11/2020 tăng 2,17 USD (5,9%) lên 39,22 USD USD/thùng trong khi giá dầu Brent giao tháng 12/2020 tăng 2,02 USD (5,1%) lên 41,29 USD/thùng.
Kết thúc phiên, dầu Brent tăng 2,2 USD (5,1%) lên 41,29 USD/thùng, dầu Tây Texas Mỹ (WTI) tăng 2,17 USD (5,9%) lên 39,22 USD/thùng.
Công nhân ngành dầu khí Nauy mở rộng đình công đòi tăng lương, khiến cho 6 mỏ dầu khí ngoài khơi nước này phải đóng cửa. Theo Theo Hiệp hội Dầu khí Na Uy (NOG), cuộc đình công này sẽ làm giảm công suất của Nauy khoảng trên 330.000 thùng/ngày, tương đương 8% tổng sản lượng. Tuy nhiên, thông tin về Nauy chỉ có tác động về tâm lý. Nhà phân tích Carsten Fritsch của Commerzbank cho biết, sản lượng của Nauy giảm như vậy sẽ không gây ảnh hưởng nghiêm trọng nào tới nguồn cung dầu toàn cầu vì thị trường dầu đang trong tình trạng dư thừa. Sản lượng của Libya tăng được bù đắp cho sản lượng của Nauy giảm. Theo một nguồn tin, sản lượng dầu của Libya đã tăng lên 290.000 thùng/ngày, gấp gần 3 lần so với sản lượng trong giai đoạn bị phong tỏa (tháng 3-9/2020).
Ngoài ra, các nhà giao dịch cũng theo dõi sát sao tình hình sức khỏe của Tổng thống Mỹ Donald Trump. Ngày 5/10 (giờ địa phương), Tổng thống Mỹ Donald Trump đã rời Trung tâm y tế quân sự Walter Reed, nơi ông có 3 ngày điều trị sau khi được chẩn đoán dương tính với virus SARS-CoV-2 gây dịch COVID-19. Bác sỹ của Tổng thống Trump, Tiến sỹ Sean Conley khẳng định các đánh giá về sức khỏe và quan trọng nhất là tình trạng lâm sàng của của Tổng thống Trump cho thấy ông có thể xuất viện và trở về nhà.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tăng do kỳ vọng về gói kích thích kinh tế mới tại Mỹ trong bối cảnh đồng USD suy yếu.
Kết thúc phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,7% lên 1.912,80 USD/ounce, trước đó có thời điểm đạt mức cao nhất kể từ 22/9 là 1.918,36 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 12/2020 tăng 0,7% lên 1.920,10 USD/ounce.
Các nhà đầu tư đã tỏ ra lạc quan hơn về gói kích thích mới cho kinh tế Mỹ, sau bình luận cuối tuần qua từ Chủ tịch Hạ viện Mỹ, Nancy Pelosi. Bà Pelosi và Bộ trưởng Tài chính Mỹ Steven Mnuchin đã có một loạt cuộc thảo luận nhằm đi đến nhất trí về các kế hoạch chi tiêu, khi đề xuất của các nghị sỹ đảng Dân chủ về gói kích thích kinh tế có giá trị 2.200 tỷ USD vượt so với số tiền mà các nghị sỹ đảng Cộng hòa muốn chi là khoảng 600 tỷ USD.
Chiến lược gia Daniel Pavilonis, thuộc RJO Futures, nhận định các bên có thể nhất trí về một thỏa thuận có quy mô nhỏ hơn và gói kích thích mới sẽ là một nhân tố có lợi cho giá vàng. Bên cạnh đó, đà giảm của đồng bạc xanh cũng hỗ trợ giá kim loại quý trên.
Phiên này, đồng USD đã giảm 0,4% so với các đồng tiền khác, giúp vàng rẻ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Thị trường vàng đang theo dõi việc công bố biên bản cuộc họp tháng 9/2020 của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) dự kiến sẽ diễn ra ngày 7/10.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 2,4% lên 24,27 USD/ounce, bạch kim tăng 1,3% lên 893 USD/ounce, palađi tăng 2,5% lên 2.366 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do có dấu hiệu cho thấy nhu cầu giảm nhiều, mặc dù thông tin tích cực về sức khỏe của ông Trump.
Kết thúc phiên, đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,5% xuống 6.521 USD/tấn, trước đó có thời điểm giá chạm mức thấp nhất 7 tuần, là 6.269 USD/tấn.
Về nhứng kim loại khác, giá nhôm tăng 0,6% lên 1.778,50 USD/tấn, kẽm giảm 0,1% xuống 2.325,50 USD/tấn, nickel tăng 1,4% lên 14.620 USD/tấn, chì giảm 0,8% xuống 1.757,50 USD/tấn và thiếc tăng 1,4% lên 18.055 USD/tấn.
Nhà phân tích Daniel Briesemann của Commerzbank cho biết: “Kim loại - và không chỉ kim loại – đang phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe của ông Trump”. Tuy nhiên, những dấu hiệu cho thấy nhu cầu đang chậm lại ở Trung Quốc – nước tiêu thụ đồng lớn nhất thế giới – có nghĩa là xu hướng giá tăng trong 6 tháng vừa qua có thể không còn tiếp diễn.
Bên ngoài Trung Quốc, sự hồi phục kinh tế khu vực đồng euro đã chững lại trong tháng 9, trong khi hoạt động của ngành dịch vụ Mỹ đang hồi phục khá nhanh. Sản lượng đồng của Chile tháng 8/2020 giảm 6,2% so với cùng kỳ, xuống 481.700 tấn. Tuy nhiên, những thông tin này không có tác động đáng kể tới thị trường đồng phiên vừa qua.
Trên thị trường nông sản, giá lúa mì trên các thị trường đều tăng. Tại sàn Chicago, giá lúa mì đỏ, cứng vụ Đông đạt mức cao nhất 2 năm vì lo ngại thời tiết khô hạn sẽ làm giảm năng suất ở những khu vực sản xuất chính trên thế giới, nhất là Mỹ, Nga và Ukraina.
Kết thúc phiên, giá lúa mì đỏ, mềm vụ Đông kỳ hạn tháng 12 trên sàn Chicago tăng 11 US cent lên 5,84-1/4 USD/bushel, cao nhất kể từ 22/1/2020; lúa mì đỏ, cứng vụ đông giao cùng kỳ hạn tăng 15 US cent lên 5,24-1/2 USD/bushel, cao nhất kể từ ngày 17/10/2018.
Giá lúa mì Nga cũng theo đà đi lên, với hợp đồng kỳ hạn tháng 10 của lúa mì 12,5% protein giá 237 USD/tấn (FOB), tăng 4% so với cách đây một tuần.
Giá ngô kỳ hạn ổn định, được hỗ trợ bởi thị trường lúa mì tăng mạnh trong khi đậu tương đóng cửa ổn định do nhu cầu xuất khẩu mạnh và giá dầu thô tăng.
Kết thúc phiên, đậu tương kỳ hạn tháng 11 giảm 3/4 cent xuống 10,21-1/2 USD/bushel, ngô kỳ hạn tháng 12 giảm 1/4 cent xuống 3,79-3/4 USD/bushel.
Giá đường thô tăng trong phiên vừa qua do dự báo nguồn cung sẽ sụt giảm và thị trường tài chính diễn biến tích cực tạo tâm lý lạc quan. Kết thúc phiên, đường thô kỳ hạn tháng 3/2021 tăng 0,06 US cent (0,4%) lên 13,61 US cent/lb, sau khi đã tăng 4% trong tuần trước – tuần tăng thứ 3 liên tiếp. Tuy nhiên, giá đường trắng phiên vừa qua giảm, với hợp đồng kỳ hạn tháng 12 giảm 0,5 USD (0,1%) xuống 373,2 USD/tấn.
Niên vụ 2019/20 đã kết thúc và chắc chắn Brazil không dư thừa nhiều, cho thấy nguồn cung ở vụ 2020/21 cũng không thừa với khối lượng lớn như những dự đoán trước.
Trong khi đó, thời tiết ở Nga và Thái Lan cũng không thuận lợi cho các cây nguyên liệu đường, còn Chính phủ Ấn Độ thì đã hoãn chính sách trợ cấp xuất khẩu.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 đã giảm 1,75 US cent (1,6%) trong phiên vừa qua, xuống 1,072 USD/lb vào lúc đóng cửa, sau khi có thời điểm chạm mức thấp nhất hơn 2 tháng, là 1,0490 USD/ounce; robusta kỳ hạn tháng 11 cũng giảm 22 USD (1,7%) xuống 1.268 USD/tấn.
Thị trường arabica đang chịu áp lực giảm khi Brazil đẩy mạnh bán ra sau khi kết thúc vụ mùa bội thu. Trong khi đó, các nhà đầu cơ giảm vị thế mua ròng trong tuần cuối tháng 9, xuống còn 25.645 hợp đồng.
Tuy nhiên, các nhà sản xuất cà phê Colombia đang chuẩn bị ứng phó với hiện tượng thời tiết La Nina, có thể gây mưa nhiều hơn mức bình thường, và sẽ tác động tiêu cực tới cây trồng, nhất là cây cà phê, vì làm cho bệnh gỉ sắt trên lá diễn biến phức tạp.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản tăng lên mức cao nhất trong vòng gần 1 tuần do tác động tích cực từ thị trường dầu mỏ và chứng khoán, sau tin ông Trump có thể xuất viện trong ngày 5/10.
Kết thúc phiên này, cao su kỳ hạn tháng 3/2021 trên sàn Osaka tăng 3,1 JPY (1,7%) lên 187 JPY (1,8 USD)/kg, trước đó có lúc giá chạm mức cao nhất kể từ 29/9, là 188,1 JPY. Trên sàn Singapore, cao su kỳ hạn tháng 11 cũng tăng 1,2% lên 137 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới sáng 6/10

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

39,45

+0,23

+0,59%

Dầu Brent

USD/thùng

41,29

+2,02

+5,14%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

28.440,00

+980,00

+3,57%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,64

+0,02

+0,88%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

120,22

+0,81

+0,68%

Dầu đốt

US cent/gallon

113,90

+0,57

+0,50%

Dầu khí

USD/tấn

329,00

+14,25

+4,53%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

42.780,00

+1.030,00

+2,47%

Vàng New York

USD/ounce

1.917,50

-2,60

-0,14%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.517,00

+86,00

+1,34%

Bạc New York

USD/ounce

24,52

-0,04

-0,18%

Bạc TOCOM

JPY/g

82,80

+1,80

+2,22%

Bạch kim

USD/ounce

901,08

+0,88

+0,10%

Palađi

USD/ounce

2.366,35

+0,49

+0,02%

Đồng New York

US cent/lb

296,40

+0,10

+0,03%

Đồng LME

USD/tấn

6.553,00

+166,00

+2,60%

Nhôm LME

USD/tấn

1.768,00

+28,50

+1,64%

Kẽm LME

USD/tấn

2.327,00

+0,50

+0,02%

Thiếc LME

USD/tấn

17.815,00

+513,00

+2,96%

Ngô

US cent/bushel

379,50

-0,25

-0,07%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

584,25

+11,00

+1,92%

Lúa mạch

US cent/bushel

287,75

+2,00

+0,70%

Gạo thô

USD/cwt

12,70

+0,14

+1,16%

Đậu tương

US cent/bushel

1.021,50

+0,75

+0,07%

Khô đậu tương

USD/tấn

346,00

-5,90

-1,68%

Dầu đậu tương

US cent/lb

32,56

+0,90

+2,84%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

520,40

+3,30

+0,64%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.459,00

-23,00

-0,93%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

107,20

-1,75

-1,61%

Đường thô

US cent/lb

13,61

+0,06

+0,44%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

113,75

+2,00

+1,79%

Bông

US cent/lb

66,03

+0,21

+0,32%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

602,10

-0,90

-0,15%

Cao su TOCOM

JPY/kg

137,90

+2,50

+1,85%

Ethanol CME

USD/gallon

1,36

0,00

0,00%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg