Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm hơn 2% giữa bối cảnh các nhà đầu tư lo ngại Quốc hội Mỹ có thể không thông qua một gói kích thích kinh tế mới và số người không có việc làm tại nước này tiếp tục gia tăng.
Kết thúc phiên, dầu Brent Biển Bắc giảm 2,2% xuống 43,31 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 2% xuống 41,07 USD/thùng.
Đồng USD hiện đang được giao dịch ở mức thấp nhất kể từ tháng 9/2018 so với rổ các đồng tiền chủ chốt. Đồng bạc xanh yếu đi thường thúc đẩy hoạt động mua hàng hóa được định giá bằng đồng tiền này, trong đó có dầu mỏ, bởi mặt hàng này trở nên rẻ hơn đối với người nắm giữ các đồng tiền khác. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại, số người nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu tại Mỹ bất ngờ tăng lần đầu tiên trong gần bốn tháng qua trong tuần trước, và đây này là một trong những yếu then chốt tác động đến giá dầu. Bên cạnh đó, đại dịch COVID-19 vẫn đang diễn biến hết sức phức tạp trên toàn cầu.
Bjornar Tonhaugen, người phụ trách các thị trường dầu tại Rystad Energy, nhận định trong bối cảnh dịch bệnh hiện nay, giới quan sát thị trường có thể sẽ điều chỉnh hạ dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu toàn cầu, đặc biệt cho trong quý IV/2020.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng hơn 1% do đồng USD yếu đi và nhà đầu tư kỳ vọng về các gói kích thích bổ sung nhằm vực dậy các nền kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng do dịch COVID-19 - điều có thể khiến lạm phát gia tăng.
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,8% lên 1.886,09 USD/ounce, sau khi có thời điểm tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 9/2011 là 1.897,91 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 8/2020 tăng 1,3% lên 1.890 USD/ounce.
Nhà phân tích Suki Cooper thuộc Standard Chartered cho rằng môi trường kinh tế vĩ mô tiếp tục tạo thuận lợi cho giá vàng, nhất là việc chỉ số đồng USD giảm xuống các mức thấp nhất trong hai năm qua. Cũng theo ông này, với vai trò là tài sản đảm bảo, vàng tiếp tục nhận được lực đẩy từ kỳ vọng rằng các chính phủ sẽ tung ra thêm các gói kích thích kinh tế cũng như căng thẳng địa chính trị leo thang.
Tính từ đầu năm đến nay, giá vàng đã tăng 24% nhờ lãi suất thấp và việc các ngân hàng trung ương lớn tung ra các biện pháp kích thích kinh tế.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 2,2% xuống 22,52 USD/ounce, giá palađi sụt 0,2% xuống 2.142,79 USD/ounce, trong khi giá bạch kim để mất 1,1% xuống còn 911,53 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng do tồn trữ tại London giảm và chi phí kim loại tăng đột biến. Trên sàn London, giá đồng tăng 0,8% lên 6.534,5 USD/tấn và hướng theo mức cao nhất 2 năm (6.633 USD/tấn) trong tuần trước đó. Lượng đồng lưu kho trên sàn London giảm xuống 55.950 tấn từ mức 250.000 tấn hồi giữa tháng 5/2020.
Giá đồng tăng từ mức thấp (4.371 USD/tấn) trong tháng 3/2020 khi virus corona lây lan và những nỗ lực của Trung Quốc nhằm kích thích nền kinh tế bằng cách thúc đẩy xây dựng cơ sở hạ tầng sẽ hỗ trợ giá, nhà phân tích Kieran Clancy thuộc Capital Economics cho biết.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc giảm do nhu cầu từ các nhà máy thép nước này đii xuống, làm lu mờ kỳ vọng nhu cầu quặng sắt mùa vụ từ nước sản xuất thép hàng đầu thế giới tăng.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn Đại Liên giảm 0,3% xuống 845,5 CNY (120,87 USD)/tấn, sau 2 phiên tăng liên tiếp; quặng sắt kỳ hạn tháng 8/2020 trên sàn Singapore tăng 0,7% lên 108,1 USD/tấn. Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,5%, giá thép cuộn cán nóng tăng 0,8% song giá thép không gỉ giảm 1%.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương Mỹ bởi nhu cầu từ Trung Quốc mạnh lên, song căng thẳng giữa Bắc Kinh và Washington leo thang đã hạn chế đà tăng.
Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 8/2020 tăng 4-1/2 US cent lên 9 USD/bushel; giá ngô kỳ hạn tháng 12/2020 tăng 3/4 US cent lên 3,35-1/2 USD/bushel, trong khi giá lúa mì kỳ hạn tháng 9/2020 giảm 5 US cent xuống 5,29-1/2 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2020 trên sàn ICE giảm 0,09 US cent tương đương 0,8% xuống 11,77 US cent/lb, sau khi tăng 1,6% trong phiên trước đó. Giá đường trắng giao cùng kỳ hạn trên sàn London giảm 2 USD tương đương 0,6% xuống 357 USD/tấn.
Giá cà phê tại Việt Nam giảm do nhu cầu yếu và nguồn cung tại Indonesia và Brazil dồi dào.
Giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen&vỡ) được chào giá cộng 160 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn London, giảm so với mức cộng 200-220 USD/tấn cách đây 1 tuần. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá dao động 32.600-33.000 đồng (1,41-1,42 USD)/kg, tăng so với 32.000 đ/kg cách đây 1 tuần.
Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 250 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 9/2020 trên sàn London, giảm so với mức cộng 250-280 USD/tấn cách đây 1 tuần.
Tại New York, giá cà phê Arabica kỳ hạn tháng 9/2020 giảm 0,85 US cent tương đương 0,8% xuống 1,075 USD/lb, trong phiên trước đó đạt mức cao nhất 2 tháng (1,1195 USD/lb).
Tại London, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2020 giảm 7 USD tương đương 0,5% xuống 1.350 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 24/7/2020

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

41,22

+0,15

+0,37%

Dầu Brent

USD/thùng

43,45

+0,14

+0,32%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

29.540,00

+430,00

+1,48%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,77

-0,01

-0,73%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

126,67

+0,81

+0,64%

Dầu đốt

US cent/gallon

125,72

+0,31

+0,25%

Dầu khí

USD/tấn

377,25

-0,50

-0,13%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

44.700,00

+450,00

+1,02%

Vàng New York

USD/ounce

1.884,30

-5,70

-0,30%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.397,00

+123,00

+1,96%

Bạc New York

USD/ounce

22,82

-0,17

-0,60%

Bạc TOCOM

JPY/g

77,70

+7,50

+10,68%

Bạch kim

USD/ounce

915,51

-4,67

-0,51%

Palađi

USD/ounce

2.153,80

-1,45

-0,07%

Đồng New York

US cent/lb

291,95

-1,90

-0,65%

Đồng LME

USD/tấn

6.544,50

+58,50

+0,90%

Nhôm LME

USD/tấn

1.701,00

+10,00

+0,59%

Kẽm LME

USD/tấn

2.239,50

+26,50

+1,20%

Thiếc LME

USD/tấn

17.813,00

+232,00

+1,32%

Ngô

US cent/bushel

337,00

+1,50

+0,45%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

532,25

+2,75

+0,52%

Lúa mạch

US cent/bushel

275,00

+2,75

+1,01%

Gạo thô

USD/cwt

11,83

0,00

-0,04%

Đậu tương

US cent/bushel

901,75

+1,75

+0,19%

Khô đậu tương

USD/tấn

298,50

+0,60

+0,20%

Dầu đậu tương

US cent/lb

30,52

+0,16

+0,53%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

485,10

-0,30

-0,06%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.202,00

-3,00

-0,14%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

107,50

-0,85

-0,78%

Đường thô

US cent/lb

11,77

-0,09

-0,76%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

123,10

-2,70

-2,15%

Bông

US cent/lb

61,97

+0,05

+0,08%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

522,40

+11,90

+2,33%

Cao su TOCOM

JPY/kg

159,60

+0,60

+0,38%

Ethanol CME

USD/gallon

1,17

-0,02

-1,68%

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg