(VINANET) – Giá những hàng hóa chủ chốt giao dịch trên thị trường thế giới phiên 10/3 (kết thúc vào rạng sáng 11/3 giờ VN) đồng loạt sụt giảm sau khi USD vọt lên mức cao kỷ lục 12 năm so với đồng euro.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm mạnh do USD tăng mạnh trong bối cảnh dự báo nguồn cung vẫn tiếp tục tăng.
Giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 4/2015 trên sàn Nymex New York giảm 1,71 USD, tương đương 3,4%, xuống 48,29 USD/thùng, thấp nhất kể từ 26/2. Giá dầu Brent, chuẩn toàn cầu, giao tháng 4/2015 trên sàn ICE Futures Europe London giảm 2,14 USD, tương đương 3,7%, xuống 56,39 USD/thùng, thấp nhất kể từ 11/2.
Phiên vừa qua USD vọt lên cao nhất 12 năm so với các đồng tiền chính trong giỏ tiền tệ trước đồn đoán Fed sẽ nâng lãi suất vào giữa năm nay. Dầu được giao dịch bằng USD, do vậy, USD mạnh lên khiến dầu trở nên đắt đỏ hơn đối với khách hàng sử dụng ngoại tệ.
Viện Dầu mỏ Mỹ (API) hôm thứ Ba 10/3 cho biết dự trữ dầu thô của Mỹ trong tuần kết thúc vào 6/3 giảm 404.000 thùng, trong khi dự trữ xăng tăng 1,7 triệu thùng và tồn kho sản phảm chưng cất tăng 1,7 triệu thùng. Tuy nhiên, giới phân tích trong khảo sát Wall Street Journal dự đoán nguồn cung dầu thô sẽ tăng 4,8 triệu thùng, dự trữ xăng giảm 1,7 triệu thùng, trong khi tồn kho sản phẩm chưng cất, kể cả dầu đốt nóng và diesel, giảm 2,3 triệu thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) sẽ công bố số liệu tồn kho dầu Mỹ trong tuần kết thúc vào 6/3 trong đêm nay 11/3 theo giờ VN.
Dự trữ dầu của Mỹ liên tục tăng đã gây áp lực lớn hơn lên giá dầu WTI so với giá dầu Brent. Trong viễn ảnh năng lượng ngắn hạn hàng hàng công bố hôm thứ Ba 10/3, EIA dự báo chênh lệch giữa giá dầu Brent và WTI năm nay và năm tới sẽ nới rộng hơn dự đoán. EIA cũng nâng dự đoán nguồn cung dầu toàn cầu trong năm nay và năm 2016 trong khi hạ dự báo tiêu thụ dầu toàn cầu.
Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 4/2015 trên sàn Nymex giảm 3% xuống 1,8183 USD/gallon, trong khi giá dầu diesel giao tháng 4/2015 giảm 1,4% xuống 1,8135 USD/gallon, thấp nhất kể từ 5/2.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm do USD mạnh lên và đồn đoán Fed sẽ nâng lãi suất vào giữa năm nay.
Giá vàng giao ngay phiên 10/3 giảm 0,4% xuống 1.161,55 USD/ounce, thấp nhất 3 tháng. Giá vàng giao tháng 4/2015 trên sàn Comex New York giảm 6,4 USD, tương đương 0,6%, xuống 1.160,1 USD/ounce, thấp nhất kể từ 12/11/2014.
Fed đã duy trì lãi suất cận 0 từ tháng 12/2008, giúp làm tăng giá vàng. Nhưng khi ngân hàng trung ương bắt đầu đánh tín hiệu thắt chặt chính sách tiền tệ, giá vàng bắt đầu giảm. Richard Fisher, chủ tịch Fed Dallas, hôm thứ Hai 10/3 cho biết, ngân hàng trung ương Mỹ sẽ sớm kết thúc chính sách nới lỏng tiền tệ.
Số liệu việc làm phi nông nghiệp của Mỹ tích cực hôm thứ Sáu tuần trước đã làm tăng đồn đoán Fed sẽ bắt đầu nâng lãi suất vào giữa năm nay.
USD lên cao nhất kể từ tháng 9/2003 so với các đồng tiền chính trong giỏ tiền tệ, khiến việc nắm giữ vàng trở nên đắt đỏ hơn đối với những người sử dụng ngoại tệ.
Giới đầu từ đang theo dõi các cuộc đàm phán về khủng hoảng nợ Hy Lạp - bất ổn có thể giúp tăng giá trị của vàng như tài sản trú ẩn an toàn.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 1% xuống 15,57 USD/ounce, thấp nhất 2 tháng, giá palladium giảm 2,4% xuống 800,75 USD/ounce, mức giảm lớn nhất kể từ 29/1, giá bạch kim xuống 1.124 USD/ounce, thấp nhất kể từ tháng 7/2009.
Trên thị trường cà phê, giá đồng loạt giảm trong phiên vừa qua, là phiên giảm thứ 2 liên tiếp trong tuần này.
Trên thị trường New York hợp đồng arabica kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 1,95 US cent/lb xuống 131,7 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 1,95 US cent/lb xuống 135,05 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 1,85 US cent/lb xuống 138,25 US cent/lb; và kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá giảm 1,8 US cent/lb xuống 141,15 US cent/lb.
Xuất khẩu cà phê của Brazil trong tháng 2 đạt 2.440.000 bao, giảm 220.000 bao (-8,27%) so với cùng kỳ năm 2014, trong khi xuất khẩu cà phê hòa tan đạt 243.123 bao (tính tương đương theo cà phê hạt), giảm 22.867 bao (-8,6%). Như vậy, tổng xuất khẩu cà phê tháng 2 của Brazil đạt 2.683.123 bao, giảm 242.867 bao (-8,3%) so với cùng kỳ năm ngoái. Về giá trị, xuất khẩu cà phê tháng 2 của Brazil đạt 524,5 triệu USD, tăng 112,6 triệu USD, tương đương 27,34% so với cùng kỳ 2014. Tuy nhiên, do đồng nội tệ real Brazil giảm giá so với USD, nên kim ngạch xuất khẩu cà phê tháng 2, tính theo real, tăng trên 50% so với cùng kỳ 2014.
Robusta cũng giảm giá trong phiên vừa qua, với hợp đồng kỳ hạn giao tháng 3/2015 trên sàn London giá giảm 17 USD/tấn xuống 1.831 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 15 USD/tấn xuống 1.856 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 17 USD/tấn xuống 1.880 USD/tấn; và kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá giảm 16 USD/tấn xuống 1.905 USD/tấn.
Cà phê Việt Nam giảm theo xu hướng thế giới. Sáng nay 11/3, giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên đã có phiên giảm thứ 2 liên tiếp trong tuần khi giảm 200.000 đồng/tấn xuống 37,8-38,7 triệu đồng/tấn. Giá cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay giảm 15 USD/tấn từ 1.781 USD/tấn hôm qua xuống 1.766 USD/tấn.
Tuy xuất khẩu cà phê robusta của Indonesia tăng nhẹ, song thị trường nội địa Việt Nam vẫn khá trầm lắng và không chỉ nông dân mà cả thương nhân đang găm hàng, hạn chế bán ra.
Hiệp hội Cà phê Cao cao Việt Nam (Vicofa) nhận đinịh sản lượng cà phê niên vụ 2014-2015 chỉ đạt hơn 1,3 triệu tấn (22,2 triệu bao), thấp hơn so với dự báo của giới thương nhân quốc tế và luôn có xu hướng nhằm hỗ trợ thị trường. Khô hạn tiếp tục đe dọa vùng cà phê Tây Nguyên khi hiện tượng El Nino tại vành đai Thái Bình Dương sẽ gây ra mối nguy mới cho các nước Đông Nam Á. Do vậy, Vicofa dự kiến sản lượng cà phê niên vụ 2015-2016 có khả năng giảm tiếp.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
So với phiên trước
|
So với phiên trước (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
48,29
|
-1,71
|
-3,4%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
56,39
|
-2,14
|
-3,7%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
44.890,00
|
-1.070,00
|
-2,33%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,73
|
-0,00
|
-0,07%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
182,22
|
+0,39
|
+0,21%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
182,41
|
+1,06
|
+0,58%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
548,25
|
+2,50
|
+0,46%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
57.050,00
|
-1.100,00
|
-1,89%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.161,55
|
-3,10
|
-0,27%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.531,00
|
-8,00
|
-0,18%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
15,69
|
+0,05
|
+0,33%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
61,40
|
0,00
|
0,00%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz,
|
1.133,63
|
+5,00
|
+0,44%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz,
|
806,00
|
+3,00
|
+0,37%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
262,75
|
+0,35
|
+0,13%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
5.765,00
|
-107,00
|
-1,82%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.762,00
|
-18,00
|
-1,01%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.021,00
|
-21,00
|
-1,03%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
17.800,00
|
-400,00
|
-2,20%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
390,25
|
+2,25
|
+0,58%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
500,75
|
+7,50
|
+1,52%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
282,00
|
-0,50
|
-0,18%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
10,52
|
-0,02
|
-0,14%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
992,50
|
+8,00
|
+0,81%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
334,50
|
+3,50
|
+1,06%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
31,00
|
+0,04
|
+0,13%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
460,90
|
-0,90
|
-0,19%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.913,00
|
-21,00
|
-0,72%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
135,05
|
-1,95
|
-1,42%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
13,02
|
-0,25
|
-1,88%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
119,00
|
-1,50
|
-1,24%
|
Bông
|
US cent/lb
|
60,69
|
-0,18
|
-0,30%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
-
|
-
|
-%
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
285,40
|
-1,20
|
-0,42%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
207,00
|
-1,70
|
-0,81%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,47
|
-0,01
|
-0,34%
|
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg