(VINANET) – Trên thị trường thế giới phiên giao dịch 21/4 (kết thúc vào rạng sáng 22/4 giờ VN), giá dầu giảm trở lại do triển vọng nguồn cung vẫn cao, trong khi vàng tăng lên khi USD giảm giá.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu quay đầu giảm khi khi liên quân do Saudi Arabia cầm đầu ngừng chiến dịch quân sự tại Yemen, xoa dịu lo ngại bạo lực ảnh hưởng đến sản lượng dầu tại Trung Đông.
Tuy sản lượng dầu của Yemen không đáng kể, song chiến dịch quân sự do Saudi Arabia đứng đầu đã dấy lên lo ngại bạo lực có thể lan rộng sang các nước xuất khẩu dầu thô khác trong khu vực và làm gián đoạn hoạt động khai thác.
Dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 5/2015 trên sàn Nymex New York giảm 1,12 USD, tương đương 2%, xuống 55,26 USD/thùng, thấp nhất 1 tuần qua. Dầu Brent kỳ hạngiao tháng 6/2015 trên sàn ICE Futures Europe London giảm 1,37 USD, tương đương 2,2%, xuống 62,08 USD/thùng.
Giá dầu giảm một phần cũng bởi Viện Dầu mỏ Mỹ (API) hôm thứ Ba 21/3 cho biết nguồn cung dầu của Mỹ trong tuần kết thúc vào 16/4 tăng 5,5 triệu thùng, tồn kho xăng tăng 1,1 triệu thùng và dự trữ sản phẩm chưng cất tăng 1,7 triệu thùng.
Thị trường đang chờ số liệu nguồn cung dầu của Mỹ, dự kiến được Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) công bố trong hôm nay. Nguồn cung dầu của Mỹ hiện đang ở mức cao nhất hơn 80 năm qua.
Theo các nhà phân tích trong khảo sát Wall Street Journal, tồn kho dầu của Mỹ trong tuần kết thúc vào 16/4 tăng 2,8 triệu thùng, dự trữ xăng giảm 800.000 thùng và nguồn cung sản phẩnm chưng cất, kể cả dầu đốt nóng và diesel, tăng 1,1 triệu thùng.
Theo EIA, sản lượng dầu của Mỹ giảm 2 trong 3 tuần qua và nhiều nhà quan sát thị trường cũng đang chờ xem liệu xu hướng này có tiếp tục.
Giá dầu Mỹ đã tăng 27% từ mức thấp nhất 52 tuần qua ghi nhận hồi tháng 3 do đồn đoán tình trạng dư cung sẽ giảm vào cuối năm nay. Nhưng giới phân tích cảnh bảo rằng sản lượng dầu của Mỹ có thể ngừng tăng hoặc thậm chí giảm trong những tháng tới, nhưng các nước sản xuất dầu khác lại vẫn đang tăng sản lượng với tốc độ khá nhanh, làm trầm trọng thêm tình trạng dư cung toàn cầu.
Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 5/2015 trên sàn Nymex giảm 4,34 cent, tương đương 2,2%, xuống 1.8881 USD/gallon, trong khi, giá dầu diesel giao tháng 5/2015 giảm 2,39 cent, tương đương 1,3%, xuống 1.8832 USD/gallon.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng đảo chiều tăng trở lại sau khi USD giảm giá làm tăng tính hấp dẫn của kim loại quý này.
Giá vàng giao ngay tăng 0,5% lên 1.202,9 USD/ounce. Trong phiên có lúc vàng giao ngay đạt tới 1.204 USD/ounce. Giá vàng giao tháng 6/2015 trên Comex New York tăng 9,4 USD, tương đương 0,8%, lên 1.203,1 USD/ounce.
Chứng khoán toàn cầu tăng sau kết quả tích cực về doanh thu doanh nghiệp, bù đắp lo ngại về khả năng vỡ nợ của Hy Lạp.
Cuối phiên USD đảo chiều giảm so với các đồng tiền trong giỏ tiền tệ. USD mạnh lên thường khiến hàng hóa giao dịch bằng đồng bạc xanh trở nên đắt đỏ hơn đói với những người sử dụng ngoại tệ.
Giá vàng cũng được hỗ trợ khi có tin tức cho thấy Ngân hàng trung ương châu Âu đang nghiên cứu các giải pháp nhằm thắt chặt quỹ khẩn cấp đối với các ngân hàng Hy Lạp, một động thái có thể đẩy nước này tiến gần hơn đến bờ vực phá sản và bị loại khỏi khu vực đồng euro.
Năm nay, giá vàng đang chịu áp lực do đồn đoán Fed chuẩn bị nâng lãi suất lần đầu tiên trong gần một thập kỷ qua, khiến USD liên tục tăng giá.
Nhu cầu vàng vật chất tại Trung Quốc, nước tiêu thụ vàng lớn thứ hai thế giới, vẫn ảm đạm, theo giới thương nhân, khi công ty kim loại quý MKS công bố “doanh thu thấp hơn và hệ thống giao dịch với biểu đồ giá khiêm tốn hơn (price action)” trong suốt phiên giao dịch tại châu Á.
Giới thương nhân cũng đang theo dõi nhu cầu vàng vật chất tại Ấn Độ, nước tiêu thụ vàng lớn nhất thế giới - thường được dự đoán sẽ tăng trong lễ hội Aksshaya Tritiya. Nguồn cung vàng vào Ấn Độ tăng mạnh nhằm tạo hàng lưu kho phục vụ lễ hội.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,5% lên 15,98 USD/ounce, giá palladium tăng 0,08% lên 770,12 USD/ounce, trong khi đó giá bạch kim giảm 0,05% xuống 1.144 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê đồng loạt giảm trên các thị trường. Tại New York, arabica kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá tăng 1,6 US cent/lb lên 140,3 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 1,45 US cent/lb lên 142,7 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá tăng 5 US cent/lb lên 1,5 US cent/lb; và kỳ hạn giao tháng 12/2015 giá tăng 1,5 US cent/lb lên 149,15 US cent/lb.
Tại London, robusta kỳ hạn giao 5/2015 giá giảm 3 USD/tấn xuống 1.801 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 4 USD/tấn xuống 1.825 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá giảm 4 USD/tấn xuống 1.849 USD/tấn; và kỳ hạn giao tháng 11/2015 giá giảm 4 USD/tấn xuống 1.865 USD/tấn.
Chênh lệch giá giữa cà phê arabica và robusta (Ice7/Liffe7) tăng nhẹ lên 59,93 US cent/lb.
Cà phê Việt Nam giảm giá theo xu hướng thế giới. Sáng nay 22/4, giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên, sau khi tăng nhẹ trong phiên đầu tuần, đã đảo chiều giảm 100.000 đồng/tấn xuống 38,1-39 triệu đồng/tấn. Giá cà phê Robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay giảm 3 USD/tấn từ 1.824 USD/tấn hôm qua xuống 1.821 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
So với phiên trước
|
So với phiên trước (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
56,39
|
-0,22
|
-0,39%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
61,97
|
-0,11
|
-0,18%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
46.610,00
|
-610,00
|
-1,29%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,57
|
-0,00
|
-0,16%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
188,53
|
-0,28
|
-0,15%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
184,77
|
-0,55
|
-0,30%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
564,50
|
-6,50
|
-1,14%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
59.820,00
|
-550,00
|
-0,91%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.202,9
|
+5,00
|
+0,5%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.613,00
|
+30,00
|
+0,65%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
15,95
|
-0,06
|
-0,36%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
61,70
|
+0,30
|
+0,49%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz,
|
1.148,63
|
-1,50
|
-0,13%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz,
|
771,15
|
+1,33
|
+0,17%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
269,95
|
-3,05
|
-1,12%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
5.945,00
|
-35,00
|
-0,59%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.816,00
|
+6,00
|
+0,33%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.207,00
|
+29,00
|
+1,33%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
15.525,00
|
+975,00
|
+6,70%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
378,50
|
-1,50
|
-0,39%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
499,50
|
-0,75
|
-0,15%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
263,00
|
-0,50
|
-0,19%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
9,98
|
0,00
|
0,00%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
975,75
|
-1,00
|
-0,10%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
315,00
|
+0,10
|
+0,03%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
31,99
|
-0,03
|
-0,09%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
453,00
|
+1,00
|
+0,22%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.775,00
|
-5,00
|
-0,18%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
142,70
|
+1,45
|
+1,03%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,38
|
-0,29
|
-2,29%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
113,00
|
-0,50
|
-0,44%
|
Bông
|
US cent/lb
|
62,99
|
-0,40
|
-0,63%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
-
|
-
|
-%
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
246,00
|
+3,10
|
+1,28%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
205,00
|
+1,60
|
+0,79%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,61
|
+0,01
|
+0,62%
|
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg