(VINANET) – Phiên cuối tuần 6/3 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 7/3 giờ VN), giá dầu và vàng đều giảm do USD tăng mạnh. Tính chung cả tuần, dầu, vàng và cà phê đều giảm giá, với mức giảm từ 0,3 đến 4%.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu thô giảm trong phiên cuối tuần, với dầu thô ngọt nhẹ (WTI) xuống dưới 50 USD trong khi dầu Brent dưới 60 USD/thùng do USD tăng giá mạnh.

Trên sàn New York, giá dầu WTI ngọt nhẹ giao tháng 4/2015 giảm 1,15 USD/thùng, tương đương 2,3%, xuống 49,61 USD/thùng, ghi nhận 3 tuần giảm liên tiếp.

Dầu Brent kỳ hạn giao tháng 4/2015 trên sàn ICE Futures Europe London phiên cuối tuần giảm 75 cent, tương đương 1,2%, xuống 59,73 USD/thùng. Tính chung trong tuần, giá giảm 4%, nhiều nhất kể từ tuần kết thúc vào 9/1.

Tình hình kinh tế đang có lợi cho thị trường dầu, song các yếu tố cơ bản vẫn gây áp lực giảm giá.

Theo số liệu của Bộ Lao động Mỹ, tháng 2/2015 khối doanh nghiệp nước này tuyển dụng thêm 295.000 nhân viên, cao hơn so với ước tính 240.000 việc làm của các nhà kinh tế học trong khảo sát Wall Street Journal. Mặc dù thông thường thị trường việc làm tăng trưởng sẽ là dấu hiệu tích cực đối với nhu cầu dầu thô và xăng – khi ngày càng nhiều người quay lại làm việc và sử dụng xe hơi để đi làm – song USD tăng giá lại đang tác động tiêu cực đến thị trường dầu.

Dầu thô và USD thường vận động trái chiều do USD đi lên làm tăng giá dầu đối với khách hàng sử dụng ngoại tệ.

Tuy thị trường dầu đã ổn định sau đợt bán tháo từ tháng 6/2014 đến tháng 1/2015, song giới phân tích cho biết những yếu tố cơ bản vẫn đáng lo ngại khi nguồn cung tiếp tục tăng và nhu cầu thấp hơn dự đoán.

Giá dầu tiếp tục giảm mạnh sau khi công ty dịch vụ giếng dầu Baker Hughes công bố báo cáo hàng tuần cho thấy số lượng giàn khoan đang hoạt động của Mỹ trong tuần giảm 64 xuống còn 922 giàn. Tuy số giàn khoan giảm 13 tuần liên tiếp, song mức giảm tuần này thấp hơn so với tuần trước và dường như đang có dấu hiệu chậm lại, trong khi số liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho thấy sản lượng dầu của Mỹ tiếp tục tăng. Theo số liệu của Citigroup, sản lượng dầu của Mỹ đạt trên 9,3 triệu thùng/ngày và tuần qua tăng thêm 40.000 thùng/ngày bất chấp số giàn khoan giảm.

Số giàn khoan đang hoạt động trở thành mối quan tâm chính của thị trường trong những tuần qua khi giới đầu tư cố gắng tìm chỉ số cho thấy mất cân bằng cung cấp đang bắt đầu ổn định, nhưng tầm quan trọng của số liệu về số giàn khoan bắt đầu giảm khi ngày càng rõ hơn rằng mối quan hệ giữa số lượng giàn khoan và sản lượng dầu rất mờ nhạt.

Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 4/2015 trên sàn Nymex giảm 0,3% xuống 1,8819 USD/gallon, trong khi giá dầu diesel giao tháng 4/2015 giảm 0,4% xuống 1,8690 USD/gallon.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng phiên cuối tuần cũng giảm tiếp, với mức giảm khá lớn 2,6% xuống 1.167,4 USD/ounce, thấp nhất 3 tháng, sau số liệu việc làm tốt hơn dự đoán, tăng đồn đoán Fed sớm nâng lãi suất.

Đóng cửa phiên cuối tuần, giá vàng giao tháng 4/2015 trên sàn Comex New York giảm 31,9 USD, tương đương 2,7%, xuống 1.164,3 USD/ounce. Như vậy, giá vàng giao ngay ghi nhận 5 phiên giảm liên tiếp và mức giảm hàng tuần lớn nhất trong 1 tháng.

Tháng 2, doanh nghiệp Mỹ tiếp tục tăng tuyển dụng nhân sự, kéo tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống 5,5%, thấp nhất 7 năm, tăng áp lực về việc nâng lãi suất của Fed vào tháng 6.

Lãi suất của Mỹ tăng sẽ tiếp tục đẩy giá USD lên đồng thời làm giảm nhu cầu tài sản phi lãi suất như vàng. USD lên cao nhất 11 năm rưỡi so với các đồng tiền chính trong giỏ tiền tệ.

USD tăng giá sẽ khiến việc nắm giữ vàng – định giá bằng đồng bạc xanh – trở nên đắt đỏ hơn đối với khách hàng sử dụng ngoại tệ, trong khi lợi suất trái phiếu Mỹ tăng cũng tác động tiêu cực đến giá kim loại quý này.

Hiện các nhà đầu tư đang chờ đợi báo cáo về thị trường việc làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp tại Mỹ, để đánh giá về đà phục hồi của nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Các nhà giao dịch đánh giá rằng báo cáo tích cực về thị trường việc làm Mỹ có thể thúc đẩy Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sớm nâng lãi suất- động thái sẽ gây tổn thương cho giá vàng.

Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 2% xuống 15,84 USD/ounce, giá palladium giảm 1,1% xuống 815 USD/ounce và giá bạch kim giảm 1,7% xuống 1.154,75 USD/ounce.

Trên thị trường cà phê, giá đồng loạt tăng trên 2 thị trường chủ chốt trong phiên cuối tuần. Tại New York, arabica tăng nhờ hoạt động mua bù sau phiên giảm giá xuống mức thấp nhất 13 tháng trước đó. Arabica kỳ hạn giao tháng 5 tăng 4,85 US cents, hay 3,6% xuống 1,399 USD/lb, nhưng tính chung trong tuần vẫn giảm 0,4%, là tuần thứ 4 liên tiếp giảm. Giám đốc điều hành Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO), Mauricio Galindo tin tưởng giá chắc chắn sẽ tăng trong những tháng tới do thiếu hụt nguồn cung.

Giá robusta tại London cũng tăng trở lại trong phiên cuối tuần, với hợp đồng kỳ hạn giao tháng 5 tăng 6 USD hay 0,3% lên 1.881 USD/tấn. Tuy nhiên tính chung trong tuần giấ vẫn mất 1,4%. Bên lề hội nghị của ICO ở London, các lãnh đạo của ngành cà phê cho rằng việc người trồng cà phê của Việt Nam hạn chế bán robusta ở mức thấp hiện nay đang hỗ trợ giá.

Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá 28/2
Giá 7/3
Giá 7/3 so với 6/3
Giá 7/3so với 6/3 (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
49,76
49,61
0,00
0,00%
Dầu Brent
USD/thùng
62,58
59,73
-0,75
-1,24%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
46.900,00
46.240,00
-580,00
-1,24%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
2,73
2,84
-0,00
-0,07%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
197,79
188,19
0,00
0,00%
Dầu đốt
US cent/gallon
197,37
186,90
0,00
0,00%
Dầu khí
USD/tấn
580,75
569,75
-1,25
-0,22%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
58.520,00
58.540,00
-470,00
-0,80%
Vàng New York
USD/ounce
1.213,10
1.164,30
0,00
0,00%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.664,00
4.520,00
-97,00
-2,10%
Bạc New York
USD/ounce
16,56
15,81
0,00
0,00%
Bạc TOCOM
JPY/g
64,10
61,50
-0,90
-1,44%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz,
1.188,75
1.161,25
-18,50
-1,57%
Palladium giao ngay
USD/t oz,
817,65
818,60
-8,05
-0,97%
Đồng New York
US cent/lb
269,15
260,90
0,00
0,00%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
5.895,00
5.745,00
-90,00
-1,54%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.815,00
1.782,00
-20,00
-1,11%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.065,00
2.020,00
0,00
0,00%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
17.950,00
18.100,00
-40,00
-0,22%
Ngô
US cent/bushel
393,25
386,00
-4,50
-1,15%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
513,00
482,50
+2,00
+0,42%
Lúa mạch
US cent/bushel
278,25
283,00
-3,50
-1,22%
Gạo thô
USD/cwt
10,75
10,48
-0,12
-1,13%
Đậu tương
US cent/bushel
1.031,75
985,00
-0,50
-0,05%
Khô đậu tương
USD/tấn
342,40
327,70
+2,50
+0,77%
Dầu đậu tương
US cent/lb
32,95
31,28
-0,29
-0,92%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
469,30
450,70
+0,30
+0,07%
Cacao Mỹ
USD/tấn
3.016,00
2.945,00
-51,00
-1,70%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
140,50
139,90
+4,85
+3,59%
Đường thô
US cent/lb
13,77
13,44
0,00
0,00%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
121,15
115,90
-3,25
-2,73%
Bông
US cent/lb
64,93
62,97
-0,26
-0,41%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
294,80
281,80
0,00
0,00%
Cao su TOCOM
JPY/kg
221,70
208,30
-1,60
-0,76%
Ethanol CME
USD/gallon
1,47
1,46
-0,05
-3,44%
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg