Giá gạo nguyên liệu IR 504 ở mức 8.400 đồng/kg; gạo thành phẩm ở mức 10.000 đồng/kg; tấm 1 IR 504 8.400 đồng/kg; cám vàng 7.700 đồng/kg.
Tại thị trường An Giang giá lúa gạo ổn định, Lúa OM 18 6.100-6.200 đồng/kg. Các loại lúa gạo khác ổn định. Giá lúa OM 5451 6.100-6.200 đồng/kg. Giá nếp vỏ tươi 5.000 đồng/kg. Giá nếp vỏ khô 6.900- 7.000 đồng/kg; giá lúa IR 50404 5.900-6.100 đồng/kg; giá lúa OM 9577 6.100 đồng/kg; lúa OM 9582 6.100 đồng/kg; giá lúa OM 6976 6.000 – 6.100 đồng/kg.
Giá gạo thường 11.000-12.000; gạo nàng hoa 16.200 đồng/kg; gạo sóc thường 14.000 đồng/kg. Gạo Nhật 24.000 đồng/kg; gạo Sóc Thái 17.000 đồng/kg; gạo thơm đài Loan trong 20.000 đồng/kg. Gạo nàng Nhen 20.000 đồng/kg. Gạo thơm thái hạt dài 18.000-19.000 đồng/kg.

Giá lúa gạo tại tỉnh An Giang ngày 3/6/2021

Tên mặt hàng

ĐVT

Giá mua của thương lái(đồng)

Giá bán tại chợ

(đồng)

Giátăng(+), giảm(-) so với ngàyhôm trước

 

Lúa gạo

- Nếp vỏ (tươi)

kg

5.000

 

 

 

- Nếp Long An (tươi)

kg

-

 

 

 

- Nếp vỏ (khô)

kg

6.900 - 7.000

 

 

 

- Lúa Jasmine

kg

-

Lúa tươi

 

 

- Lúa IR 50404

kg

5.900 - 6.100

 

 

- Lúa OM 9577

kg

6.100

 

 

- Lúa OM 9582

kg

6.100

 

 

- Lúa Đài thơm 8

kg

6.400 - 6.500

 

 

- Lúa OM 5451

kg

6.100 - 6.200

 

 

- Lúa OM 6976

kg

6.000 - 6.100

 

 

- Lúa OM 18

Kg

6.100 - 6.200

 

 

- Lúa Nhật

kg

7.500 -7.600

 

 

- Lúa IR 50404

kg

7.000

Lúakhô

 

 

- Lúa Nàng Nhen (khô)

kg

12.000

 

 

- Nếp ruột

kg

 

14.000

 

 

- Gạo thường

kg

 

11.000 - 12.000

 

 

- Gạo Nàng Nhen

kg

 

20.000

 

 

- Gạo thơm thái hạt dài

kg

 

18.000 - 19.000

 

 

- Gạo thơm Jasmine

kg

 

14-000 - 15.000

 

 

- Gạo Hương Lài

kg

 

17.000

 

 

- Gạo trắng thông dụng

kg

 

14.000

 

 

- Gạo Nàng Hoa

kg

 

16.200

 

 

- Gạo Sóc thường

kg

 

14.000

 

 

- Gạo SócThái

kg

 

17.000

 

 

- Gạo thơm Đài Loan trong

kg

 

20.000

 

 

- Gạo Nhật

kg

 

24.000

 

 

- Cám

kg

 

7.000 - 8.000

Nhập khẩu gạo giá rẻ tái xuất, ảnh hưởng đến uy tín gạo Việt Nam

Giá xuất khẩu gạo Việt Nam đang giảm do sức ép từ mặt bằng giá gạo xuất khẩu của Pakistan và Ấn Độ. Hiện giá gạo 5% tấm chỉ còn 488 - 492 USD/tấn, giảm khoảng 25 USD/tấn so với tháng 2-2021.
Giá gạo 5% tấm của Ấn Độ và Pakistan trong tuần qua vẫn dao động 388 - 392 và 438 - 442 USD/tấn, thấp hơn giá gạo Việt Nam 40 - 100USD/tấn. Ngày 1-6, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo ở ĐBSCL cho biết: “Việc giá xuất khẩu gạo Việt Nam giảm cũng tạo căng thẳng cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Điều cần thiết hiện nay là các doanh nghiệp cần khôn ngoan chào giá bán tốt, chứ không phải đua nhau hạ giá gây ảnh hưởng chung cho mặt bằng giá gạo Việt Nam”.
Cộng đồng doanh nghiệp đã phản ứng rất mạnh trước việc nhập gạo giá rẻ từ Ấn Độ của một số doanh nghiệp trong nước để tái xuất. Đây là cách kinh doanh “ăn xổi ở thì”, hám lợi trước mắt, có thể làm ảnh hưởng đến uy tín của thương hiệu gạo Việt Nam được tạo lập gần đây.
Theo PGS-TS Dương Văn Chín, nguyên Phó Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL: “Giá gạo trắng hạt dài của Ấn Độ, Pakistan thấp hơn của Việt Nam vì đó là những giống lúa có hàm lượng amylose cao, cứng cơm. Gần đây, gạo trắng hạt dài của chúng ta có giá bán trên thị trường thế giới không thua kém gạo Thái Lan, Ấn Độ ở cùng phân khúc. Việt Nam có được thành tựu như vậy là nhờ công tác lai tạo chọn lọc ra được những giống lúa mới, đạt thành quả nhất định trong thời gian vừa qua. Những giống lúa này rất đa dạng, trồng được ở nhiều vùng sinh thái khác nhau, nhiều vụ khác nhau trong năm, cho chất lượng cơm ngon, được nhiều nước nhập khẩu ưa chuộng”.
Điều chỉnh giá xuất khẩu trước sức ép gạo giá rẻ từ Ấn Độ, Pakistan
Trước áp lực đến từ các sản phẩm gạo giá rẻ của Ấn Độ và Pakistan trên thị trường quốc tế, Việt Nam đã buộc phải hạ giá gạo để tăng sức cạnh tranh trong xuất khẩu. Tuy nhiên, động thái nhập gạo giá rẻ từ Ấn Độ gần đây của một số doanh nghiệp trong nước để tái xuất có nguy cơ tạo ra những bất lợi cho hoạt động xuất khẩu của cả ngành lúa gạo.
Lo ngại trước sức ép gạo giá rẻ từ Ấn Độ và Pakistan
Dữ liệu thống kê của Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho thấy, dù có những biến động ở từng thời điểm nhưng việc chào giá xuất khẩu gạo Việt Nam từ đầu năm đến nay đang trong xu hướng sụt giảm, trước sức ép hạ giá của Ấn Độ và Pakistan.
Theo đó, tại thời điểm giữa tháng 2-2021, trong khi Việt Nam chào bán gạo 5% tấm ở mức 513-517 đô la Mỹ/tấn, thì cùng phân khúc này, Ấn Độ chào giá chỉ 398-402 đô la Mỹ/tấn, tức thấp hơn Việt Nam 115 đô la Mỹ/tấn. Trong khi đó, cùng phân khúc, Pakistan cũng có giá thấp hơn Việt Nam đến 65 đô la Mỹ/tấn (tất cả được chào bán theo giá FOB - là giá tại cửa khẩu bên quốc gia người bán, đã bao gồm chi phí vận chuyển ra cảng, làm thủ tục xuất khẩu, và thuế xuất khẩu (nếu có).
Cách đây hơn một tuần, vào ngày 20-5, gạo 5% tấm của Việt Nam được chào bán với giá 493-497 đô la Mỹ/tấn. Với mức giá này, gạo Việt Nam đã giảm 20 đô la Mỹ/tấn so với thời điểm giữa tháng 2 vừa qua.
Giá gạo Việt Nam sụt giảm trong bối cảnh giá gạo Ấn Độ và Pakistan cũng sụt giảm, mà cụ thể, vào thời điểm ngày 20-5, gạo 5% tấm của hai quốc gia này chào bán lần lượt là 388-392 đô la Mỹ/tấn và 438-442 đô la Mỹ/tấn, cùng giảm 10 đô la Mỹ/tấn so với thời điểm giữa tháng 2.
Còn hiện tại, gạo 5% tấm của Việt Nam chỉ còn 488-492 đô la Mỹ/tấn, tức tiếp tục giảm 5 đô la Mỹ/tấn so với mức giá cách đây khoảng một tuần. Trong khi đó, so với một tuần trước, gạo Ấn Độ và Pakistan hiện vẫn ở mức lần lượt là 388-392 và 438-442 đô la Mỹ/tấn.
Trao đổi với KTSG Online, ông Nguyễn Thanh Phong, Giám đốc Công ty TNHH MTV chế biến lương thực Vạn Lợi - một trong những doanh nghiệp lớn về kinh doanh sản xuất mua bán các loại gạo cao cấp, gia công xuất khẩu gạo, cho biết trong thời gian qua, gạo Việt Nam chịu sức ép cạnh tranh rất lớn về giá trước đối thủ đến từ Ấn Độ và Pakistan. “Do đó, việc giá gạo xuất khẩu của Việt Nam “hạ nhiệt” một mặt để thu hẹp chênh lệch với giá của Ấn Độ, Pakistan (tại thời điểm ngày 28-5-2021 gạo Việt Nam cao hơn gạo Ấn Độ 100 đô la Mỹ/tấn so với mức chênh lệch 115 đô la Mỹ/tấn như hồi giữa tháng 2-2021; cao hơn Pakistan 50 đô la Mỹ/tấn so với mức 65 đô la Mỹ/tấn hồi giữa tháng 2-2021), mặt khác cũng nhằm gia tăng sức cạnh tranh của gạo Việt Nam trước các đối thủ".
Ngay cả nước xuất khẩu gạo như Việt Nam, trước sức "hấp dẫn" về giá của gạo Ấn Độ, thời gian qua, đã nhập khẩu một lượng gạo nhất định về để phân phối trong nước. Thậm chí, đã có những phản ánh về tình trạng gian lận nguồn gốc xuất xứ trong xuất khẩu (tức nhập về để xuất sang nước thứ ba) trong thời gian gần đây.
Ở góc nhìn của nhà kinh doanh, ông Nguyễn Văn Thành, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại xuất nhập khẩu Phước Thành IV, cho rằng giá gạo Việt Nam duy trì ở mức cao và cách biệt so với các đối thủ (Ấn Độ và Pakistan) cũng là điều đáng mừng. “Nhưng, giá cao so với các quốc gia xuất khẩu gạo khác thì liệu có giữ được khách hàng lâu hay không?”, ông nêu câu hỏi và băn khoăn rằng điều này thật sự rất khó đoán trước.
Một điểm đáng quan tâm, như nêu ở trên, đó là việc doanh nghiệp gian lận xuất xứ, có nguy cơ tạo ra những bất lợi rất lớn cho hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam. Bởi lẽ, thay vì đặt giá cao để mua gạo Việt Nam được đấu trộn với gạo Ấn Độ, thì họ nhập gạo Ấn Độ với giá rẻ sẽ có lợi hơn.
Chính vì vậy, theo ông Thành, Chính phủ và các bộ, ngành trung ương cần có biện pháp kiểm soát nhập khẩu gạo từ Ấn Độ cũng như tình trạng gian lận xuất xứ để bảo vệ uy tín của hạt gạo Việt Nam.
Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, xuất khẩu gạo của Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm tình hình diễn biến cung cầu thế giới; sự thay đổi chính sách của thị trường nhập khẩu; sự cạnh tranh của các đối thủ như Ấn Độ, Thái Lan, Campuchia, Pakistan.
Từ nay đến cuối năm, đủ gạo xuất khẩu thêm 4,25 triệu tấn
Trong khi đó, với bối cảnh dịch Covid-19 đang có chiều hướng gia tăng, câu chuyện an ninh lương thực liệu có bị tác động xấu hay không?
Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy, kế hoạch sản xuất lúa năm nay của Việt Nam đạt 7,257 triệu héc-ta với năng suất bình quân khoảng 59,7 tạ/héc-ta, tương đương đạt tổng sản lượng khoảng 43,3-43,5 triệu tấn lúa (khoảng 26 triệu tấn gạo).
Trong khi đó, dự báo nhu cầu tiêu thụ nội địa trong năm nay, bao gồm cả tiêu thụ của người dân, phục vụ chế biến, chăn nuôi, làm giống và dự trữ là khoảng gần 30 triệu tấn lúa. Như vậy, vẫn còn dư đến hơn 13 triệu tấn lúa hàng hoá, tức tương đương 6,5 triệu tấn gạo phục vụ cho xuất khẩu.
Theo báo cáo của VFA, trong 15 ngày đầu của tháng 5, xuất khẩu gạo Việt Nam đạt 269.224 tấn với trị giá đạt gần 146 triệu đô la Mỹ, giảm 48,17% về lượng và 46,63% về giá trị so vơi cùng kỳ. Lũy kế, xuất khẩu gạo đến giữa tháng 5 này đạt 2,242 triệu tấn, trị giá 1,218 tỉ đô la Mỹ, giảm 15,07% về lượng và 4,27% về giá trị so với cùng kỳ.
Như vậy, sau khi cân đối giữa lượng gạo đã xuất khẩu (2,242 triệu tấn) cũng như khả năng cung ứng cho xuất khẩu (6,5 triệu tấn), thì từ nay đến cuối năm, lượng gạo còn lại có khả năng phục vụ cho xuất khẩu của Việt Nam là khoảng 4,25 triệu tấn. 

Nguồn: VITIC/thesaigontimes.vn/sggp.org.vn