Nhu cầu từ các khách hàng chủ chốt tăng mạnh cũng hỗ trợ giá lúa mì Nga. Ai Cập – nước nhập khẩu lúa mì lớn nhất thế giới và là nước mua lúa mì lớn nhất của Nga, đã nhập khẩu 120.000 tấn lúa mì Nga trong một đợt đấu thầu vào tuần trước.
Giá lúa mì Nga vụ thu hoạch mới khu vực biển Đen đạt 200 USD/tấn, FOB trong tuần kết thúc 29/6, tăng 1 USD so với tuần trước đó, công ty tư vấn nông nghiệp IKAR cho biết.
SovEcon, công ty tư vấn có trụ sở tại Moscow chốt giá lúa mì và lúa mạch ở mức 197 USD/tấn và 189,5 USD/tấn theo thứ tự lần lượt.
Tính đến 27/6, Nga đã xuất khẩu 52 triệu tấn ngũ cốc kể từ đầu niên vụ 2017/18 bắt đầu ngày 1/7, tăng 48% so với niên vụ trước đó, bao gồm 40,2 triệu tấn lúa mì.
SovEcon ước tính xuất khẩu lúa mì, lúa mạch và ngô của Nga trong tháng 6 đạt 3,1 triệu tấn. Công ty này đã giảm dự báo lúa mì Nga năm 2018 lên 72,5 triệu tấn so với 73,1 triệu tấn do thời tiết lạnh và mưa tại Siberia. Công ty này có thể giảm dự báo hơn nữa nếu thời tiết khô kéo dài tại khu vực châu Âu của Nga, thêm vào đó là diện tích gieo trồng lúa mì vụ xuân chạm mức thấp nhất trong ít nhất 50 năm.
Công ty giảm ước tính xuất khẩu ngũ cốc năm 2018/19 xuống còn 47,2 triệu tấn bao gồm 36,9 triệu tấn lúa mì, 4,4 triệu tấn lúa mạch và 4 triệu tấn ngô.
Giá lúa mì loại 3 thị trường nội địa không thay đổi, ở mức 9.175 rup (145 USD)/tấn khu vực châu Âu của Nga, giá xuất xưởng, SovEcon cho biết.
Chính phủ tiếp tục xuất khẩu lên tới 500.000 tấn ngũ cốc giai đoạn 2008-2016 từ 4 triệu tấn ngũ cốc dự trữ, để giải phóng kho dự trữ và giảm chi phí ngân sách đối với dịch vụ dự trữ.
Giá hạt hướng dương giảm 50 rup xuống còn 21.350 rup/tấn, SovEcon cho biết. Giá dầu hướng dương thị trường nội địa giảm 175 rup xuống còn 45.075 rup/tấn, trong khi giá dầu xuất khẩu không thay đổi ở mức 715 USD/tấn.
Chỉ số giá đường trắng của IKAR khu vực phía nam Nga đạt 497,71 USD/tấn, giảm so với 501,65 USD/tấn trong tuần trước đó.
1 USD = 63,1499 rup
Nguồn: VITIC/Reuters

Nguồn: Vinanet