Cụ thể, cao su SVR3L tăng từ 28.800 đ/kg (14/9) lên 29.700 đ/kg (21/9); cao su SVR10 tăng từ 26.400 đ/kg lên 27.900 đ/kg.

Trong khi đó, hệ thống cung cấp giá tại địa phương ghi nhận giá mủ cao su dạng nước tại Bình Phước tuần qua không đổi ở mức 7.040 đ/kg đối với mủ tạp 32 độ.

Sau hơn một năm thực hiện xuất khẩu cao su thiên nhiên sang thị trường Trung Quốc hoàn toàn theo phương thức mậu dịch chính ngạch, hoạt động giao dịch đã ổn định. Sản lượng các mặt hàng xuất khẩu cũng như giá cả không còn hiện tượng biến động đột ngột gây ra những rủi ro, ảnh hưởng đến công việc kinh doanh của các công ty xuất khẩu. Khó khăn hiện nay còn tồn tại ở cao su tiểu điền, sản xuất với quy mô nhỏ, nằm rải rác ở phía Nam là việc thu gom hàng hóa và sơ chế sản phẩm đạt yêu cầu xuất khẩu mậu dịch chính ngạch.

Tuần qua, sản lượng cao su thiên nhiên xuất khẩu đạt hơn 10.000 tấn, trong đó cao su tiểu điền đóng góp 3.000 tấn.Giá trung bình đối với sản phẩm SVR3L giảm nhẹ xuống còn 10.300 NDT/tấn.

Mặc dù những lo ngại về nhu cầu tiêu thụ cao su của Trung Quốc – nhà tiêu thụ cao su lớn nhất thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, song từ đầu năm đến nay tiêu thụ cao su của nước này vẫn tăng trưởng đều đặn. Xuất khẩu cao su của Việt Nam sang Trung Quốc cũng tăng mạnh trong 8 tháng đầu năm nay.

Trong bối cảnh ngành công nghiệp sản xuất ô tô Trung Quốc thường tăng trưởng mạnh trong những tháng cuối năm, với nhu cầu cao su luôn ở mức cao, dự báo xuất khẩu cao su của Việt Nam sang thị trường sẽ tiếp tục khả quan trong các tháng tới.

Xuất khẩu cao su của Việt Nam sang thị trường Ấn Độ cũng có triển vọng tăng do nhu cầu của thị trường này. Mặt khác, các nhà nhập khẩu cao su Ấn Độ cũng đang chuyển hướng sang nguồn cao su nhập khẩu khi giá cao su trong nước cao hơn quốc tế và nguồn cung không đáp ứng được nhu cầu.

Tuy nhiên, xuất khẩu cao su Việt Nam sang thị trường  Malaysia nhiều khả năng vẫn ảm đạm do nhu cầu thấp và tồn kho cao.

Theo số liệu thống kê sơ bộ từ TCHQ Việt Nam, 8 tháng 2016, cả nước đã xuất khẩu 718,2 nghìn tấn cao su, trị giá 901,5 triệu USD, tăng 13,1% về lượng nhưng giảm 2,2% về trị giá so với cùng kỳ, tính riêng tháng 8 xuất khẩu 150,2 nghìn tấn, trị giá 191,3 triệu USD, tăng 17,7% về lượng và tăng 17,1% về trị giá so với tháng 7/2016.

Nguồn: VITIC/Agromonitor

 

Nguồn: Vinanet