Số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan cho thấy, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ thị trường Australia trong 9 tháng đầu năm 2019 đạt 3,36 tỷ USD, tăng 23,33% so với cùng kỳ. Trong đó, than các loại là nhóm hàng chiếm 35,62% thị phần, đạt 1,19 tỷ USD, tăng 105,42% so với cùng kỳ. Australia đã đẩy mạnh xuất khẩu nhóm này khiến sản lượng đưa về Việt Nam tăng mạnh mẽ 203,01% đạt 11,41 triệu tấn.
Một số nhóm hàng có kim ngạch nhập khẩu hơn 100 triệu USD như: Lúa mì đạt 203,45 triệu USD; quặng và khoáng sản khác đạt 415,82 triệu USD; phế liệu sắt thép đạt 130,23 triệu USD; kim loại thường khác đạt 367,92 triệu USD.
Gỗ và sản phẩm gỗ là nhóm hàng tuy có tỷ trọng nhỏ (0,25%) chỉ đạt 8,23 triệu USD nhưng lại có mức tăng mạnh 121,51% so với cùng kỳ. Mức kim ngạch nhập khẩu tăng hơn 70% có 3 nhóm: Sữa và sản phẩm sữa (71,12%) đạt 37,26 triệu USD; thức ăn gia súc và nguyên liệu (73,36%) đạt 19,89 triệu USD; quặng và khoáng sản khác (70,07%) đạt 415,82 triệu USD.
Ở chiều ngược lại, Australia giảm xuất khẩu một số nhóm hàng sang Việt Nam trong 9 tháng/2019. Khí đốt hóa lỏng giảm 20,03% về lượng đạt 36.266 tấn và giảm 49,98% về trị giá đạt 15,35 triệu USD; bông các loại giảm 69,04% về lượng đạt 36.888 tấn và giảm 70,92% về trị giá đạt 71,62 triệu USD.
Hàng hóa nhập khẩu từ thị trường Australia 9 tháng/2019
Mặt hàng
|
9 tháng năm 2019
|
+/- so với cùng kỳ 2018 (%)*
|
Lượng (tấn)
|
Trị giá (USD)
|
Lượng
|
Trị giá
|
Tổng
|
|
3.360.376.213
|
|
23,33
|
Sữa và sản phẩm sữa
|
|
37.262.265
|
|
71,12
|
Hàng rau quả
|
|
82.489.273
|
|
-1,50
|
Lúa mì
|
708.603
|
203.454.704
|
-20,57
|
-16,03
|
Dầu mỡ động thực vật
|
|
5.282.535
|
|
-6,11
|
Chế phẩm thực phẩm khác
|
|
9.033.973
|
|
56,58
|
Thức ăn gia súc và nguyên liệu
|
|
19.892.226
|
|
73,36
|
Quặng và khoáng sản khác
|
4.342.785
|
415.826.077
|
26,29
|
70,07
|
Than các loại
|
11.415.590
|
1.196.890.965
|
203,01
|
105,42
|
Khí đốt hóa lỏng
|
36.266
|
15.357.113
|
-20,03
|
-49,98
|
Sản phẩm khác từ dầu mỏ
|
|
6.265.764
|
|
-17,43
|
Hóa chất
|
|
1.215.826
|
|
-20,34
|
Sản phẩm hóa chất
|
|
32.165.846
|
|
-4,94
|
Dược phẩm
|
|
43.418.890
|
|
16,77
|
Chất dẻo nguyên liệu
|
10.665
|
14.776.559
|
18,59
|
-0,07
|
Gỗ và sản phẩm gỗ
|
|
8.234.783
|
|
121,51
|
Bông các loại
|
36.888
|
71.625.329
|
-69,04
|
-70,92
|
Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày
|
|
11.232.269
|
|
-28,44
|
Đá quý, kim loại quý và sản phẩm
|
|
9.463.883
|
|
11,76
|
Phế liệu sắt thép
|
388.383
|
130.230.872
|
9,61
|
0,18
|
Sắt thép các loại
|
57.391
|
30.154.739
|
67,67
|
61,82
|
Sản phẩm từ sắt thép
|
|
3.263.467
|
|
34,78
|
Kim loại thường khác
|
129.680
|
367.927.313
|
-12,28
|
-18,61
|
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác
|
|
34.944.629
|
|
-12,55
|
Hàng hóa khác
|
|
609.966.913
|
|
26,02
|
(*Tính toán số liệu từ TCHQ)
Australia là một trong những thị trường xuất khẩu nông, lâm, thủy sản nhiều tiềm năng của Việt Nam, đặc biệt 3 năm gần đây, vải, xoài, thanh long của Việt Nam đã được nhập khẩu vào thị trường này. Theo Bộ Công Thương, hàng năm, Australia nhập khẩu khoảng 1,7 - 2 tỷ USD các loại rau, củ, quả, trong khi giá trị xuất khẩu bình quân các mặt hàng này của Việt Nam sang Australia mới đạt trên 40 triệu USD/năm. Như vậy, dư địa còn rất lớn, nhất là khi danh sách các loại quả tươi Việt Nam được Australia chuẩn bị cấp phép nhập khẩu sẽ nối dài. Tuy nhiên, các chuyên gia cũng khuyến cáo, để thâm nhập tốt thị trường này, doanh nghiệp Việt Nam phải nâng cao hơn nữa chất lượng hàng hóa xuất khẩu, đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật; đồng thời, tuân thủ quy định kiểm dịch của Australia về vùng trồng, cơ sở đóng gói, chiếu xạ, bao bì, nhãn mác, kiểm tra dư lượng thuốc trừ sâu ngay từ Việt Nam…
Trong lĩnh vực đầu tư, Australia có hơn 400 dự án đầu tư trực tiếp tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký trên 2 tỷ USD, đứng thứ 19/116 quốc gia có dự án đầu tư tại Việt Nam. Ở chiều ngược lại, các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu đầu tư vào Australia, với 50 dự án với tổng số vốn trên 500 triệu USD.
Về hợp tác kinh tế, thương mại đầu tư, ODA, đây là những trụ cột của quan hệ đối tác chiến lược với nỗ lực của hai bên trong việc đẩy mạnh kim ngạch thương mại, tăng cường đầu tư song phương.
Thủ tướng Việt Nam cho biết hai nhà lãnh đạo nhất trí sẽ gỡ bỏ các rào cản thương mại, tiếp tục có chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp hai nước đầu tư vào mỗi nước, phấn đấu nâng kim ngạch hàng hóa từ mức gần 8 tỷ USD năm 2018 lên mức 10 tỷ USD vào năm 2020.
Nguồn: VITIC