(VINANET)

Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp phân bón là một trong những vật tư quan trọng và được sử dụng với một lượng khá lớn hàng năm. Phân bón đã góp phần đáng kể làm tăng năng suất cây trồng, chất lượng nông sản, đặc biệt là đối với cây lúa ở Việt Nam.

Là một nước nông nghiệp nên việc sử dụng phân bón tại Việt Nam có chiều hướng gia tăng. Do nguồn cung phân bón trong nước thiếu hụt đã dẫn đến việc Việt Nam vẫn tiếp tục phải nhập khẩu phân bón.

Theo số liệu thống kê từ TCHQ Việt Nam, trong tháng, lượng phân bón nhập khẩu của cả nước là 228 nghìn tấn, trị giá đạt 106 triệu USD, giảm 1,8% về lượng và tăng 1,9% về trị giá so với tháng 3-2012. Tính đến hết 4 tháng năm 2012, cả nước nhập khẩu 848 nghìn tấn phân bón, trị giá đạt 373 triệu USD, giảm 34,3% về lượng và giảm 21,9% về trị giá.

Việt Nam nhập khẩu phân bón từ các thị trường như Trung Quốc, Nhật Bản, Canada, Philippine, Nga… trong đó chủ yếu nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc là chính với 403 nghìn tấn, chiếm 47,5% lượng nhập khẩu của cả nước, trị giá 178,5 triệu USD, giảm 12,84% về lượng nhưng tăng 16,35% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước. Tính riêng tháng 4/2012, Việt Nam đã nhập khẩu trên 144 nghìn tấn phân bón từ thị trường Trung Quốc với kim ngạch 63,7 triệu USD, tăng 51,5% về lượng và tăng 63,7% về trị giá so với tháng 4/2011.

Phân ure là chủng loại phân bón được nhập nhiều từ thị trường Trung Quốc trong tháng này, với đơn giá 408,1 USD/tấn - DAF tại cửa khẩu Móng Cái (Quảng Ninh).

Thị trường đứng thứ hai sau Trung Quốc là Nhật Bản với 93,2 nghìn tấn, trị giá 23,1 triệu USD, giảm 8,31% về lượng nhưng tăng 14,38% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.

Nhìn chung, bốn tháng đầu năm nay, nhập khẩu phân bón từ các thị trường chủ chốt đều giảm về lượng nhưng tăng trưởng về kim ngạch so với 4 tháng năm 2011.

Đáng chú ý, trong thời gian này, tuy nhập khẩu phân bón từ thị trường Nga chỉ đạt 49,8 nghìn tấn, trị giá 24,7 triệu USD nhưng lại là thị trường có lượng và kim ngạch tăng trưởng mạnh nhất, tăng 915,15% về lượng và gấp hơn 2 lần về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước.

Theo Cục Hóa chất (Bộ Công thương), 4 tháng đầu năm nay, ước tính các nhà máy trong nước đã sản xuất được trên 460 ngàn tấn ure. Trong quý 1, có 44.321 tấn ure được NK vào nước ta. Trong tháng 4, có khoảng trên 20 ngàn tấn ure NK. Như vậy, trong 4 tháng qua, nước ta đã có trên 520 ngàn tấn ure. Trong quý 2 này, TCty Phân bón và Hóa chất Dầu khí sẽ cung ứng ra thị trường 290 ngàn tấn ure (200 ngàn tấn sản xuất mới, 60 ngàn tấn tồn kho và 30 ngàn tấn NK thêm). Cũng trong quý 2, Nhà máy Đạm Cà Mau sẽ cung ứng ra thị trường khoảng 150 ngàn tấn ure. Nhà máy đạm Ninh Bình ở Miền Bắc cũng bắt đầu cung ứng ure từ quý 2 này. Do đó, ông Nguyễn Hạc Thúy, Chủ tịch Hiệp hội Phân bón Việt Nam khẳng định rằng so với nhu cầu sản xuất nông nghiệp hiện nay, lượng ure là không thiếu.

Nếu so sánh giữa lượng ure sản xuất trong nước và lượng ure NK, rõ ràng ure nội địa đang chiếm thế thượng phong. Vì chỉ tính riêng 4 tháng đầu năm nay, lương ure NK chỉ khoảng trên 60 ngàn tấn, trong khi ure nội địa lên tới trên 460 ngàn tấn. Không những thế, hầu hết sản lượng ure nội địa vẫn đang được trợ giá. Theo Cục quản lý giá (Bộ Tài chính), do được trợ giá khí, than, nên giá thành ure nội địa thấp hơn giá ure NK khá nhiều. Ure sản xuất từ khí có giá thành thấp hơn giá ure NK tới 57,7%, ure nội địa làm từ than thấp hơn 23,52%.Như vậy ure nội địa vẫn tiếp tục được hưởng trợ giá đầu vào nên giá thành rẻ hơn nhiều so với giá ure NK.

Thị trường nhập khẩu phân bón 4 tháng 2012

ĐVT: Lượng (tấn): trị giá (USD)

Thị trường

KNNK 4T/2012

KNNK 4T/2011

% So sánh

Lượng

Trị giá

Lượng

Trị giá

Lượng

Trị giá

Kim ngạch

848.419

373.278.298

1.224.536

448.904.082

-30,72

-16,85

Trung Quốc

403.060

178.517.515

462.447

153.426.510

-12,84

16,35

Nhật Bản

93.203

23.116.025

101.645

20.209.936

-8,31

14,38

Canada

65.991

35.577.943

78.948

35.531.188

-16,41

0,13

Philippin

60.828

28.819.929

85.861

40.458.940

-29,16

-28,77

Nga

49.864

24.772.648

4.912

972.544

915,15

2.447,20

Hàn Quốc

29.467

7.914.976

45.472

12.532.743

-35,20

-36,85

Đài Loan

28.214

7.745.768

27.182

6.288.172

3,80

23,18

Nauy

9.815

4.943.257

5.398

2.772.024

81,83

78,33

Malaixia

8.412

3.696.158

24.401

9.897.962

-65,53

-62,66

Bỉ

3.368

2.249.832

3.782

2.111.738

-10,95

6,54

Hoa Kỳ

1.242

2.020.365

2.606

1.957.445

-52,34

3,21

Ấn Độ

1.166

2.998.966

576

1.819.928

102,43

64,78

Thái Lan

797

1.296.481

1.134

636.596

-29,72

103,66

Ucraina

189

92.610

 

 

 

*

Từ một nước luôn phải phụ thuộc phần lớn vào nguồn phân đạm urê nhập khẩu, bắt đầu từ năm 2012, Việt Nam đã có thể tự chủ hoàn toàn được loại phân bón quan trọng này.

Đặc biệt, khi các dự án mới về sản xuất phân đạm urê đi vào hoạt động ổn định trong quý 4/2012 và nguồn cung phân bón tổng hợp NPK các loại cũng đã vượt xa nhu cầu cần thiết thì các doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội để hướng tới xuất khẩu.

Hiệp hội Phân bón Việt Nam (FAV) cho biết, năm 2012, lần đầu tiên Việt Nam sẽ tự túc được hoàn toàn nhu cầu phân đạm urê khi Nhà máy đạm Cà Mau của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam công suất 800 nghìn tấn/năm và Nhà máy Phân bón Ninh Bình của Tập đoàn Công nghiệp hóa chất Việt Nam công suất 560 nghìn tấn/năm đi vào hoạt động, nâng tổng công suất đạm urê lên 2,36 triệu tấn, tăng hơn gấp đôi so với năm 2011.

Trong khi đó, nhu cầu urê năm 2012 chỉ khoảng 1,8 triệu tấn. Như vậy, không những tự túc được phân đạm urê cho sản xuất nông nghiệp mà còn chấm dứt tình trạng nhập khẩu thất thường kéo dài trong nhiều năm qua, bởi theo tính toán với năng lực sản xuất như hiện nay thì nguồn cung vượt trên nhu cầu của cả nước khoảng 560 nghìn tấn/năm.

Như vậy, với nguồn cung dư thừa thì các doanh nghiệp sản xuất phân bón sẽ phải tìm thị trường xuất khẩu để tạo đầu ra cho sản xuất trong nước. Trước đây, đã từng có những thời điểm các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện xuất khẩu phân urê, nhưng đó là khi urê nhập khẩu và sản xuất trong nước bị tồn đọng nhiều do cung vượt cầu, nên phải tiến hành xuất khẩu lượng urê nhập khẩu tồn kho.

Phân bón XK từ đầu năm đến nay đã tăng rất mạnh. Trong tháng 4 vừa rồi, nước ta đã XK 129.365 tấn phân bón, trị giá 57 triệu USD. Trong 4 tháng đầu năm nay, nước ta đã XK 425.305 tấn phân bón, trị giá 188,169 triêu USD, tăng tới 122,2% về lượng và 173,4% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Trong 15 ngày đầu tháng 5, lại có thêm 60.424 tấn phân bón được XK, trị giá 27,411 triệu USD. Tính ra, từ đầu năm đến nay, đã có 485.729 tấn phân bón được XK ra nước ngoài.

Còn tới cuối năm 2012, lần đầu tiên Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành nước xuất khẩu phân đạm urê do chính các nhà máy trong nước sản xuất. Việc này sẽ không phải là nhất thời mà sẽ kéo dài trong nhiều năm tới, vì sản lượng urê sản xuất trong nước sẽ còn tiếp tục tăng mạnh.

Dự kiến, sản lượng urê trong nước sẽ vượt qua mức 3 triệu tấn vào năm 2015. Nhà máy đạm Hà Bắc đang triển khai dự án mở rộng đầu tư nâng công suất từ 200 nghìn tấn/năm hiện nay lên 500 nghìn tấn/năm vào năm 2015. Tập đoàn Công Thanh cũng đang tính toán đầu tư nhà máy sản xuất đạm từ than cám với công suất khoảng 560 nghìn tấn/năm tại xã Hải Yến, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.

Trong khi đó, nhu cầu urê cả nước trong những năm tới đây vẫn chỉ ở mức khoảng trên dưới 2 triệu tấn/năm. Do đó, không phải chờ đến năm 2015 mà ngay từ cuối năm 2011, các doanh nghiệp sản xuất urê đã bắt đầu tìm kiếm thị trường xuất khẩu để giảm bớt áp lực cạnh tranh trong nước và có đầu ra ổn định cho hoạt động sản xuất.

Theo FAV, xuất khẩu phân bón là một hướng mở tiềm năng cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước, nhưng thị trường xuất  khẩu phân bón của Việt Nam cũng đang bị cạnh tranh khốc liệt với các sản phẩm phân bón của Trung Quốc, Thái Lan, các nước Trung Đông, Nga. Vì vậy, bên cạnh việc mỗi doanh nghiệp sản xuất phân bón phải chủ động đầu tư cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng, giảm giá thành để tăng sức cạnh tranh, cũng như có chiến lược xây dựng thương hiệu thì sự hợp tác liên kết giữa các doanh  nghiệp cùng ngành nghề sẽ rất cần thiết giúp doanh nghiệp thắng lợi trên thị trường trong và ngoài nước.

Việc liên kết có thể thực hiện giữa các doanh nghiệp trong cùng một tập đoàn hoặc giữa các tập đoàn với nhau khi sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp này lại là sản phẩm đầu vào của doanh nghiệp khác.

Hiện nay, thị trường châu Phi đang có nhu cầu lớn về phân bón các loại nhưng xuất khẩu vào thị trường này cũng khá rủi ro cho doanh nghiệp, bởi các ngân hàng ở các nước châu Phi không đảm bảo về thanh toán. Vì vậy, nếu Chính phủ Việt Nam ký được Hiệp định bảo đảm thanh toán với chính phủ các nước châu Phi nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất khẩu không bị thiệt hại thì kim ngạch xuất  khẩu phân bón vào châu Phi có thể nâng lên rất cao.

Tổng thư ký FAV Nguyễn Đình Hạc Thúy khẳng định, giá phân bón phụ thuộc nhiều vào giá than và giá khí, giá quặng apatit, bởi đây là nguồn nguyên liệu và nhiên liệu đầu vào chủ yếu để sản xuất phân bón. Vì vậy, cùng với việc nghiên cứu chính sách giá bán nguồn nguyên nhiên liệu đầu vào này hợp lý đảm bảo lợi ích của các bên, Bộ Tài chính cần sớm có chính sách thuế phù hợp, tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp xuất  khẩu phân bón.

Theo tính toán của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nhu cầu phân bón các loại của cả nước trong năm 2012 sẽ khoảng 9,8 triệu tấn. Trong đó, phân NPK 3,5 triệu tấn, phân urê 2 triệu tấn, phân lân các loại 1,8 triệu tấn, DAP 950 nghìn tấn, kali 920 nghìn tấn, đạm SA 710 nghìn tấn.

Trong các loại phân bón chủ lực trên, thì đến năm 2012, Việt Nam đã hoàn toàn tự túc được NPK, lân và urê. Còn đối với phân DAP, dù hiện đã có Nhà máy DAP Đình Vũ (Hải Phòng) với công suất 330 nghìn tấn/năm, nhưng cũng chỉ đáp ứng được 35% nhu cầu cả nước. Còn lại 65% nhu cầu DAP vẫn phải phụ thuộc vào nhập khẩu. Tập đoàn hóa chất đang tích cực xúc tiến việc xây dựng nhà máy DAP ở Lào Cai, có công suất tương đương với Nhà máy Đình Vũ.

Như vậy, chỉ sau vài năm nữa, lượng DAP nhập  khẩu sẽ giảm đáng kể. Còn 2 loại phân quan trọng khác là SA và kali vẫn phải nhập 100% từ nước ngoài, bởi trong nước hiện nay chưa có nhà máy nào sản xuất 2 loại phân bón này.

Trong khi đó, hiện nay, Việt Nam đã có đủ cơ sở vật chất để sản xuất amoniac nhằm cung cấp nguyên liệu cho sản xuất phân SA. Còn nếu thực hiện được dự án khai thác và chế biến muối mỏ ở Lào thì sẽ có thể sản xuất được kali cho thị trường nội địa.

 

Nguồn: Vinanet