Theo Báo cáo đánh giá tài nguyên rừng toàn cầu do Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp Quốc (FAO) công bố vào năm 2020, trong vòng 30 năm (từ 1990 đến 2020), thế giới đã mất đi một diện tích rừng khổng lồ, lên đến 420 triệu ha. Mặc dù, tỷ lệ này đã giảm trong giai đoạn gần đây, nhưng tình trạng phá rừng vẫn được ước tính ở mức 10 triệu ha mỗi năm trong giai đoạn 2015 đến nay. Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu mở rộng đất canh tác để sản xuất lương thực, thực phẩm và các sản phẩm khác, đã "nuốt chửng" 90% diện tích rừng. Thậm chí, một phần đáng kể diện tích rừng còn bị phá vì những lý do hợp pháp.
Trong khi đó, là một trong những thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới, EU lại đã và đang góp phần vào việc tàn phá rừng trên quy mô toàn cầu thông qua việc nhập khẩu hàng loạt các sản phẩm có liên quan. Với kim ngạch nhập khẩu lên đến 85 tỷ Euro mỗi năm, EU đang tiêu thụ một lượng lớn các sản phẩm có nguồn gốc từ rừng bị phá hủy. Thêm vào đó, Ủy ban liên minh về biến đổi khí hậu (IPCC) đã đưa ra kết luận rằng phá rừng và suy thoái rừng chính là hai trong những tác nhân chính gây ra tình trạng biến đổi khí hậu. Điều này cho thấy mối đe dọa từ việc tàn phá rừng đang ngày càng lớn và đòi hỏi các hành động quyết liệt. Trong bối cảnh này, vai trò của EU trong việc bảo vệ rừng là vô cùng quan trọng và cấp bách.
Tháng 7/2019, EU bắt đầu triển khai chiến dịch truyền thông về thúc đấy hành động nhằm bảo vệ và khôi phục rừng trên toàn thế giới. Sau đó, từ tháng 9-12/2020, EU tổ chức sự kiện tham vấn công chúng với 1,2 triệu người tham gia đóng góp ý kiến. Tháng 10/2020, Diễn đàn đa bên về bảo vệ và khôi phục rừng thế giới (Multi-Stakeholder Platform on Protecting and Restoring the World’s Forests) đã được tổ chức. Ngày 17/11/2021, Ủy ban châu Âu đề xuất ban hành Quy định của EU về chống mất rừng (EUDR). Sau nhiều cuộc đàm phán về đề xuất EUDR với Nghị viện châu Âu và Hội đồng Liên minh châu Âu, đến tháng 6 năm 2023, EUDR chính thức có hiệu lực. Theo đó, EUDR sẽ bắt đầu áp dụng đối với các cá nhân và tổ chức từ ngày 30/12/2024; đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia thành viên EU là từ tháng 6/2025.
Trong Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Chương 13 (Thương mại và Phát triển bền vững) bao gồm các cam kết về quản lý rừng bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học, chống khai thác, thương mại gỗ bất hợp pháp và không gây mất rừng. Do vậy, việc chuẩn bị và thực thi EUDR khẳng định cam kết phát triển bền vững của Việt Nam, góp phần thúc đẩy thực hiện Hiệp định EVFTA.
Cam kết về tính bền vững và nguồn cung ứng có trách nhiệm
Được EU ban hành vào ngày 23/6/2023 và được áp dụng kể từ tháng 1/2025, EUDR cấm nhập khẩu 7 nhóm mặt hàng (cà phê, dầu cọ, gỗ, cao su, thịt gia súc, ca cao, và đậu) vào EU nếu quá trình sản xuất các mặt hàng này gây mất rừng. Theo EUDR, các mặt hàng nhập khẩu chỉ được phép lưu thông tại thị trường EU nếu đáp ứng được hai điều kiện sau: Thứ nhất, sản phẩm nhập khẩu là hợp pháp. Hợp pháp ở đây có nghĩa các hoạt động sản xuất, chế biến, vận chuyển… diễn ra tại quốc gia sản xuất đáp ứng được toàn bộ các quy định pháp luật của quốc gia này. Thứ hai, quá trình sản xuất sản phẩm không gây mất rừng, với mốc thời gian mất rừng tính từ sau ngày 31/12/2020.
Để chứng minh sản phẩm thỏa mãn cả hai điều kiện trên, doanh nghiệp đưa sản phẩm vào lưu thông tại thị trường EU phải thu thập thông tin về chuỗi cung; từ đó, đưa ra các biện pháp giảm thiểu rủi ro. Thông tin về chuỗi cung, về đánh giá rủi ro và đặc biệt các biện pháp giảm thiểu rủi ro cần được doanh nghiệp công bố trong Due Diligence Statement (cam kết thẩm định chuỗi cung). Các doanh nghiệp quy mô lớn có thời gian 18 tháng và doanh nghiệp quy mô nhỏ có 24 tháng tính từ thời điểm EUDR có hiệu lực để chuẩn bị thông tin.
Trước khi EUDR chính thức đi vào thực thi (sau 18 tháng kể từ ngày EUDR được ban hành), EU sẽ tập hợp thông tin dựa trên đó phân loại các quốc gia, vùng sản xuất các mặt hàng này theo nhóm quốc gia, vùng rủi ro cao, trung bình hoặc thấp về mối liên quan tới mất rừng và suy thoái rừng. Trong quá trình thực hiện phân loại, EU sẽ tham vấn với các quốc gia nhằm có kết quả phân loại khách quan.
Theo Điều 16 của EUDR, cơ quan thẩm quyền của EU sẽ kiểm tra ít nhất 9% tổng lượng hàng hóa nhập khẩu hàng năm và 9% tổng số công ty nhập khẩu nếu hàng hóa nhập khẩu có nguồn gốc từ quốc gia, vùng sản xuất được EU xếp vào nhóm rủi ro cao. Ngược lại, cơ quan này chỉ kiểm tra tối thiểu 1% các nhà nhập khẩu nếu hàng hóa được nhập khẩu từ quốc gia, vùng thuộc nhóm rủi ro thấp".
Các tiêu chí chính được EU áp dụng để phân loại quốc gia, vùng theo mức độ rủi ro bao gồm: (i) tốc độ mất rừng và suy thoái rừng tại quốc gia, vùng này; (ii) tốc độ mở rộng diện tích đất nông nghiệp cho các loại sản phẩm liên quan; (iii) các xu thế sản xuất các sản phẩm liên quan.
Để phân loại quốc gia và vùng sản xuất, EU cũng có thể xem xét một số yếu tố quan trọng như những nỗ lực của quốc gia đó trong việc giảm thiểu lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính từ các hoạt động nông nghiệp và lâm nghiệp, các cam kết quốc tế mà quốc gia đó đã đưa ra để giải quyết vấn đề mất rừng và suy thoái rừng, đặc biệt là các hiệp định hợp tác với EU, và cuối cùng là việc quốc gia đó có đang tích cực tham gia vào cơ chế thị trường carbon theo quy định của Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu hay không.
Những nông sản của Việt Nam chịu tác động bởi EUDR
Mặc dù rủi ro gây mất rừng có liên quan tới khâu sản xuất của 3 mặt hàng cà phê, gỗ, cao su tại Việt Nam đều không lớn, do diện tích canh tác nhìn chung đã ổn định, nhưng hiện vẫn còn tồn tại một số vấn đề về chuỗi cung làm cản trở tới khả năng truy xuất nguồn gốc, ảnh hưởng đến kết quả đánh giá và phân loại rủi ro của EU theo quốc gia, vùng sản xuất.
Hiện đất trồng cà phê đa phần là đất nông nghiệp được Nhà nước giao cho hộ sử dụng lâu dài. Mặc dù có tới 40% diện tích đất trồng cà phê tại Việt Nam đã được cấp chứng chỉ sản xuất bền vững, nhưng có những diện tích mở rộng trên nền đất rừng kể từ sau năm 2003 đến nay vẫn chưa có giấy chứng nhận sử dụng đất.
Với gỗ rừng trồng, hiện tại cả nước có 3,5 triệu ha rừng sản xuất, với 1,1 triệu hộ tham gia trồng rừng sản xuất, cung cấp 60% trong tổng lượng cung gỗ rừng trồng mỗi năm (trên 24 triệu m3 tổng số), còn lại là do các doanh nghiệp trồng rừng. Hiện đã có trên 60% số hộ trồng rừng đã được nhận giấy chứng nhận sử dụng đất. Hầu hết các công ty lâm nghiệp nhà nước đã có giấy chứng nhận sử dụng đất. Tuy vậy, diện tích rừng sản xuất có chứng chỉ bền vững hiện đạt khoảng dưới 10% tổng diện tích rừng sản xuất.
Hiện nay, cả ba ngành hàng cà phê, gỗ, cao su có một số đặc điểm chung khá tương đồng. Một là, nông hộ đóng vai trò chủ đạo trong khâu đầu của chuỗi. Hai là, đất sản xuất tương đối manh mún; ba là, chuỗi cung thường dài, với nhiều bên tham gia.
Với ngành cao su, tổng diện tích cây cao su tại Việt Nam hiện khoảng 918 ngàn ha, với khoảng 300 nghìn hộ tiểu điền tham gia trồng trên diện tích và lượng cung chiếm trên 50% trong tổng diện tích và tổng lượng cung của toàn ngành. Còn lại là do gần 100 công ty nhà nước chủ yếu thuộc Tập đoàn Cao su Việt Nam và Ủy ban nhân dân các tỉnh. Đất giao cho các công ty cao su nhà nước hầu hết đã có “sổ đỏ”, nhưng hiện chưa có thông tin về tình trạng giấy chứng nhận sử dụng đất của hộ trồng cao su.
Khâu tiêu thụ cà phê, gỗ, cao su đều phụ thuộc vào đội ngũ thu mua, thương lái đông đảo, hoạt động ở nhiều cấp khác nhau, như thôn, xã huyện, tỉnh…
Hoạt động tại các khâu trung gian phức tạp, chưa tuân thủ với các yêu cầu của Nhà nước. Khúc mắc trong việc hoàn thuế VAT của các doanh nghiệp xuất khẩu sử dụng nguyên liệu đầu vào của các mặt hàng này, đặc biệt là đối với các mặt hàng gỗ trong thời gian vừa qua là minh chứng điển hình thể hiện tính phức tạp, không tuân thủ các yêu cầu pháp lý của các khâu trong chuỗi.
Phân loại rủi ro vùng sản xuất, giảm thiểu các thách thức cho các doanh nghiệp xuất khẩu
Trước khi EUDR chính thức đi vào thực thi, Việt Nam cần chủ động thiết lập kênh kết nối trực tiếp với EU nhằm cung cấp thông tin, thảo luận về các tiêu chí phân loại nhằm thống nhất về các tiêu chí phân loại quốc gia. Điều này góp phần giảm thiểu các thách thức cho các doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng này của Việt Nam trong tương lai.
Ngay sau khi EUDR được ban hành, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam đã tổ chức nhiều cuộc họp với EU và ban hành Khung kế hoạch hành động thích ứng với EUDR. Kế hoạch này nhấn mạnh vào các khía cạnh như tăng cường giám sát các vùng rủi ro cao, chủ động trao đổi với EU, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia, rà soát bản đồ thực địa, nâng cao nhận thức....
Song theo ý kiến của các chuyên gia, cần có thêm sự tham gia của tất cả các bên liên quan, như Bộ Công Thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, doanh nghiệp và hiệp hội 3 ngành hàng. Do vậy, nên thành lập Nhóm công tác chuyên trách việc chuẩn bị thông tin và tiến hành đối thoại với EU với sự tham gia đầy đủ của đại diện các bên liên quan.
Sự đồng lòng và chủ động từ tất cả các bên liên quan sẽ là yếu tố quyết định cho thành công trong việc góp phần thúc đẩy EU có những đánh giá khách quan về Việt Nam về các khía cạnh rủi ro khi phân loại quốc gia, vùng sản xuất
Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý và hiệp hội ngành hàng cần tiến hành rà soát, đánh giá toàn diện chuỗi cung ứng của ba ngành hàng kể trêm. Trên cơ sở đó, xây dựng và triển khai các giải pháp nhằm tăng cường tính bền vững và minh bạch của chuỗi cung, đặc biệt tập trung vào các yếu tố như nguồn gốc xuất xứ, vị trí địa lý và khả năng truy xuất nguồn gốc. Qua đó, chủ động cung cấp thông tin chi tiết, chính xác về thực trạng của ba mặt hàng này, góp phần nâng cao hiểu biết của EU về các ngành hàng này của Việt Nam.
Việc thực hiện EUDR là một thách thức lớn nhưng cũng là cơ hội cho Việt Nam trong việc cải thiện quy trình quản lý và nâng cao giá trị sản phẩm xuất khẩu. Thông qua các hành động cụ thể và chiến lược phối hợp chặt chẽ, Việt Nam hoàn toàn có khả năng đáp ứng yêu cầu của EU cũng như các thị trường xuất khẩu lớn khác trong tương lai. Sự đồng lòng và chủ động từ tất cả các bên liên quan sẽ là yếu tố quyết định cho thành công trong việc góp phần thúc đẩy EU có những đánh giá khách quan về Việt Nam về các khía cạnh rủi ro khi phân loại quốc gia, vùng sản xuất. Điều này không chỉ quan trọng đối với việc đáp ứng các yêu cầu của EUDR, mà còn để chuẩn bị cho việc đáp ứng các yêu cầu tại các thị trường xuất khẩu lớn khác của Việt Nam như Hoa Kỳ, Anh, Nhật Bản, Canada, Australia…