Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2022 xuất khẩu ximăng, clinker đạt gần 16,2 triệu tấn, trị giá 740 triệu USD, giảm 22% về lượng, giảm 7,7% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.
Hiện Trung Quốc và Philippines vẫn là 2 thị trường xuất khẩu chính của ximăng, clinker Việt Nam. Tuy nhiên, tại cả 2 thị trường này, mức nhập khẩu sản phẩm từ các nhà cung cấp Việt Nam đều sụt giảm trong nửa đầu năm 2022.
Các chuyên gia chỉ rõ nguyên nhân do Trung Quốc vẫn duy trì chính sách "Không COVID," cùng đó là thị trường bất động sản của nước này đang trong trạng thái suy giảm khiến sản lượng tiêu thụ ximăng cũng giảm mạnh trong thời gian qua.
Còn đối với thị trường xuất khẩu ximăng lớn thứ 2 là Philippines cũng bị ảnh hưởng bởi vận tải biển khó khăn và giá cước cao...
Lượng ximăng và clinker xuất sang các thị trường theo Hiệp định thương mại FTA-CPTTP đạt 685.232 tấn, tương đương 30,24 triệu USD với mức giá 44 USD/tấn - tăng 14,3% về khối lượng, tăng 21% về trị giá và tăng 6% về giá so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung, giá xuất khẩu trung bình ximăng và clinker 6 tháng qua đạt 45,5 USD/tấn, ước tăng khoảng 15% so với cùng kỳ.
Nhưng đà tăng của chi phí đầu vào, đặc biệt là than phục vụ sản xuất clinker cũng đã tăng gần 500 USD/tấn vào thời điểm tháng 5/2022. Do đó, so với mức giá 75-80 USD/tấn hồi cuối năm 2020, thì mức tăng giá xuất khẩu kể trên vẫn quá thấp.
Một số doanh nghiệp sản xuất ximăng phản ánh với giá đầu vào tăng cao như hiện nay, nhất là giá than vừa tăng vừa khan hiếm nguồn cung thì càng sản xuất càng lỗ.
Cao điểm khi giá than tăng, 1 tấn ximăng ước lỗ khoảng 200.000-240.000 đồng, kể cả có đầu ra tốt thì vẫn không hiệu quả.
Ngoài giá than phi mã do tác động không mong muốn từ xung đột Nga-Ukraine, cộng với giá tất cả các nguyên liệu đầu vào khác, giá điện, vỏ bao, nhân công, vận chuyển đều tăng do giá xăng dầu nhảy múa thì bài toán hiệu quả với các doanh nghiệp ximăng đang là vấn đề lớn, đại diện một doanh nghiệp ximăng xác nhận.
Theo Tổng công ty ximăng Việt Nam, tháng 10/2020, loại than mà VICEM vẫn dùng có giá chỉ 50-60 USD/tấn nhưng có thời điểm như hiện giờ giá đội lên tới 490 USD/tấn - tăng gấp 8 lần. Với mức giá than cao như vậy mà mang ra đốt để nghiền clinker thì doanh nghiệp khó có lãi.
Trong khi than nhập khẩu tăng gần chục lần thì than trong nước cũng tăng giá mạnh.
Riêng tháng 5/2022, Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã có 2 lần tăng giá bán. Cùng đó, giá xăng dầu thế giới và trong nước cũng tăng gần 50% so với đầu năm đã kéo theo sự gia tăng của các chi phí cước vận tải và logistics lên theo.
Năm 2022, nguồn cung ximăng tiếp tục duy trì ở mức cao, khoảng 108 triệu tấn. Trong khi đó, tiêu thụ nội địa dự kiến chỉ khoảng 65 triệu tấn.
Bởi vậy, xuất khẩu tiếp tục là kênh tiêu thụ quan trọng của các doanh nghiệp sản xuất ximăng. Tuy nhiên, bài toán xuất khẩu đối với các doanh nghiệp cũng đang gặp khó./.

Nguồn: vietnamplus.vn