Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm do dự doán nguồn cung tại Mỹ sẽ tăng. Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent trên sàn London giảm 46 US cent (0,7%) xuống 64,74 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 7 US cent (0,1%) xuống 57,47 USD/thùng.
Gần như toàn bộ hoạt động xuất khẩu dầu của Libya bị ngừng trệ do các đường ống dẫn dầu ở cả miền Đông và miền Tây đều bị phong tỏa. Nếu tình trạng này tiếp diễn thêm vài ngày thì toàn bộ các bể chứa dầu của nước này sẽ hết công suất chứa và sản lượng sẽ phải chậm lại.
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia phân tích và một số nhà giao dịch cho rằng tình trạng gián đoạn nguồn cung dầu tại Libya chỉ là ngắn hạn và có thể được bù đắp bởi các nhà sản xuất khác, qua đó chỉ có tác động hạn chế tới thị trường nhiên liệu toàn cầu.
Bên cạnh đó, tình hình bất ổn ở Iraq, một nước sản suất dầu lớn khác, cũng đã hỗ trợ cho giá dầu lúc đầu phiên vừa qua. Nhưng giới chức nước này sau đó cho biết hoạt động sản xuất dầu ở các mỏ dầu phía Nam không bị ảnh hưởng do sự bất ổn này.
Theo người đứng đầu ngành dầu khí Nhật Bản, bất kỳ sự gián đoạn nguồn cung dầu nào sẽ được bù đắp bởi sản lượng gia tăng từ Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC), và điều này sẽ hạn chế tác động xấu đến thị dầu mỏ toàn cầu.
Số liệu của Chính phủ Mỹ cho thấy nền kinh tế số một thế giới đã trở thành nhà sản xuất dầu mỏ hàng đầu thế giới, với sản lượng đạt mức cao kỷ lục 13 triệu thùng/ngày, nhờ sự bùng nổ của ngành khai thác dầu đá phiến.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) ngày 21/1 đã giảm dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2020 đi 0,1 điểm phần trăm mức xuống còn 3,3% do đà tăng trưởng chậm lại rõ rệt tại Ấn Độ và các nền kinh tế mới nổi khác. Tuy nhiên, IMF cho rằng thỏa thuận thương mại giai đoạn 1 giữa Mỹ và Trung Quốc là một dấu hiệu cho thấy thương mại và hoạt động sản xuất sẽ sớm thoát khỏi trì trệ.
Giá khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) trên thị trường Châu Á đã giảm xuống mức thấp nhất nhiều năm trong phiên vừa qua, là dưới 4 USD/triệu đơn vị nhiệt lượng Anh (mmBtu). Lần gần đây nhất giá giao ngay giảm xuống dưới 4 USD (trên thị trường Đông Bắc Á) là năm 2016.
Tuần này, cơ sở xuất khẩu LNG của Brunei đã bán một chuyến hàng kỳ hạn giao 30-31/3/2020 với giá 3,9-3,95 USD/mmBtu. Ở Singapore, S&P Global Platts thuộc S&P Global Inc báo giá khí Japan-Korea-Marker (JKM) – tham chiếu cho giá khí gas giao ngay toàn Châu Á - ở mức thấp nhất hơn 3 năm, là 4,046 USD/mmBtu.
Mùa đông này thời tiết ôn hòa, trong khi Mỹ bổ sung sản lượng khí gas thương phẩm dự báo sẽ còn tiếp tục gây áp lực lên giá mặt hàng này. Tuy nhiên, giá khí rẻ có thể thúc đẩy nhiều nước Châu Á như Nhật Bản chuyển từ sử dụng than đá sang khí gas.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm 1% vào cuối phiên trong bối cảnh các nhà đầu tư chốt lời sau khi giá kim loại quý này tăng lên mức cao nhất 2 tuần qua vào đầu phiên. Tuy nhiên, giá vẫn duy trì trên 1.550 USD/ounce do môi trường lãi suất thấp và những căng thẳng địa chính trị kéo dài.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay giảm 0,2% xuống 1.558,47 USD/ounce, sau khi đầu phiên có lúc tăng lên mức cao nhất kể từ ngày 8/1 là 1.568,35 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 2/2020giảm 0,2% xuống 1.557,90 USD/ounce.
Tuy vậy, đà giảm này đã được hạn chế do sự sụt giảm của các thị trường chứng khoán cũng như những quan ngại về nguy cơ lây lan của loại virus lạ ở Trung Quốc.
Hiện các nhà đầu tư đang hướng sự chú ý đến cuộc họp chính sách đầu tiên năm 2020 của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ trong tháng 1/2020. Lãi suất cao sẽ làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng.
Về những kim loại quý khác, giá palađi giảm 4% xuống 2.400,12 USD/ounce, giá bạc giảm 1,3% xuống 17,83 USD/ounce, còn giá bạch kim giảm 1,1% xuống 1.004,17 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do các nhà đầu tư bán ra mạnh bởi lo ngại virus corona ở Trung Quốc có thể làm giảm tăng trưởng kinh tế của nước này.
Đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 1,6% xuống 6.160 USD/tấn, trong phiên có lú giá chạm mức thấp nhất kể từ 8/1/2019, là 6.150 USD/tấn. Lượng đồng lưu kho trên sàn London tăng 38.700 tấn, đat 162.925 tấn. Thị trường đồng tinh luyện thế giới đã thiếu hụt 33.000 tấn trong tháng 10/2019, giảm so với 89.000 tấn của tháng trước đó.
Giá thép tại Trung Quốc giảm sau 4 phiên tăng trước đó do triển vọng nhu cầu không ổn định bởi lo ngại về kinh tế Trung Quốc. Thép cây trên sàn Thượng Hải giảm 0,9% xuống 2.570 CNY (517,5 USD)/tấn; thép cuộn cán nóng giảm 1,3% xuống 3.593 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 đã tăng 0,7% (10 US cent) lên 14,55 US cent/lb vào cuối phiên vừa qua, đầu phiên có lúc đạt 14,59 US cent – cao nhất 2 năm. Đường trắng giao cùng kỳ hạn cũng tăng 0,2% (0,8 USD) lên 399,5 USD/tấn.
Thị trường tiếp tục được thúc đẩy bởi nguồn cung khan hiếm. Dự báo mức thiếu hụt trong niên vụ 2019/20 tiếp tục được điều chỉnh tăng, trong khi vụ thu hoạch ở cả Ấn Độ và Thái Lan đều bị chậm lại.
Tuy nhiên, đà tăng giá bị hạn chế do khả năng Brazil sẽ tăng sản xuất đường thay vì ethanol.
Giá cà phê arabica giảm trong phiên vừa qua do các nhà đầu tư bán mạnh bởi có một số dấu hiệu kỹ thuật cho thấy giá sẽ còn giảm nữa. Arabica kỳ hạn tháng 3/2020 giảm 1% (1,1 US cent) xuống 1,1105 USD/lb vào cuối phiên, sau khi có lúc chạm mức thấp nhất 2 tháng là 1,104 USD/lb. Các thương gia cho biết lượng arabica lưu trữ trên sàn New York đang tăng lên.Trong khi đó, robusta cũng kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 2,3%, hay 30 USD, lên 1,335 USD/tấn.
Giá cao su tại Tokyo giảm trên 4% trong phiên vừa qua, nhiều nhất trong vòng 22 năm, do lo ngại kinh tế Trung Quốc có thể sa sút hơn nữa do dịch cúm bởi virus lạ.
Hợp đồng kỳ hạn tháng 6/2020 đã giảm 8,4 JPY, tương đương 4,2%, xuống 193 JPY (1,76 USD)/kg, mức giảm nhiều nhất kể từ tháng 3/2018. Đây là mức giá thấp nhất kể từ 23/12/2019.
Trên sàn Thượng Hải, cao su kỳ hạn tháng 5/2020 cũng giảm 345 CNY xuống 12.620 CNY (1.827 USD)/tấn.
Với hàng triệu người dâu Á đi du lịch trong dịp Tết Nguyên đán, các nhà lãnh đạo Trung Quốc xác nhận virus lạ có thể lan nhanh giữa người nọ và người kia. Được biết đã có 15 nhân viên y tế bị nhiễm virus này và đã có 4 ca tử vong vì virus này.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

58,34

-0,20

-0,34%

Dầu Brent

USD/thùng

64,59

-0,61

-0,94%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

41.100,00

-20,00

-0,05%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,91

+0,02

+0,84%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

163,75

+0,10

+0,06%

Dầu đốt

US cent/gallon

182,85

-0,07

-0,04%

Dầu khí

USD/tấn

569,00

-7,75

-1,34%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

57.700,00

-170,00

-0,29%

Vàng New York

USD/ounce

1.557,90

0,00

0,00%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.494,00

-38,00

-0,69%

Bạc New York

USD/ounce

17,80

-0,01

-0,07%

Bạc TOCOM

JPY/g

62,80

-1,20

-1,87%

Bạch kim

USD/ounce

1.002,75

+1,83

+0,18%

Palađi

USD/ounce

2.395,88

-5,81

-0,24%

Đồng New York

US cent/lb

279,30

-0,05

-0,02%

Đồng LME

USD/tấn

6.259,00

-14,00

-0,22%

Nhôm LME

USD/tấn

1.812,00

+7,00

+0,39%

Kẽm LME

USD/tấn

2.444,00

+14,50

+0,60%

Thiếc LME

USD/tấn

17.850,00

+40,00

+0,22%

Ngô

US cent/bushel

387,50

-1,75

-0,45%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

581,50

+11,00

+1,93%

Lúa mạch

US cent/bushel

314,75

+3,00

+0,96%

Gạo thô

USD/cwt

13,42

-0,10

-0,74%

Đậu tương

US cent/bushel

916,00

-13,75

-1,48%

Khô đậu tương

USD/tấn

299,10

-1,50

-0,50%

Dầu đậu tương

US cent/lb

32,75

-0,60

-1,80%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

476,80

-4,20

-0,87%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.818,00

+21,00

+0,75%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

111,05

-1,10

-0,98%

Đường thô

US cent/lb

14,55

+0,10

+0,69%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

95,80

+0,75

+0,79%

Bông

US cent/lb

69,24

-2,01

-2,82%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

424,70

-5,30

-1,23%

Cao su TOCOM

JPY/kg

194,00

+1,00

+0,52%

Ethanol CME

USD/gallon

1,36

-0,01

-0,87%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg