Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng trong bối cảnh Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) tỏ ý có thể gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng khai thác dầu mỏ.
Đóng cửa phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 11/2017 trên sàn New York tăng 0,29 USD, lên 49,58 USD/thùng; dầu Brent giao tháng 12/2017 trên sàn London cũng tăng 0,17 USD, lên 55,79 USD/thùng tại London.
Trong một phát biểu mới đây, Tổng thư ký OPEC Mohammad Barkindo cho biết các cuộc tham vấn đang được tiến hành nhằm kéo dài thỏa thuận cắt giảm sản lượng dầu mỏ sau tháng 3/2018. Ông cũng nhấn mạnh các thành viên trong và ngoài OPEC có thể thực hiện một số biện pháp “đặc biệt” để đảm bảo thị trường cân bằng trong dài hạn.
Hãng dịch vụ dầu khí Baker Hughes cho biết số lượng giàn khoan hoạt động ở Mỹ giảm 2 giàn, xuống 748 giàn trong tuần qua.
Các nhà máy lọc dầu của Mỹ đang chật vật trong nỗ lực đáp ứng nhu cầu mạnh mẽ của thị trường đối với dầu sưởi ấm và các chế phẩm dầu mỏ khác, bất chấp hoạt động chế biến dầu mỏ đã gần trở về bình thường sau siêu bão Harvey.
Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ, dự trữ các nhiên liệu chưng cất của nước này trong tuần trước đã giảm 2,6 triệu thùng, xuống 135 triệu thùng. Tính từ đầu năm tới nay, dự trữ nhiên liệu chưng cất của Mỹ giảm 27 triệu thùng, trái ngược so với mức tăng 3 triệu thùng của cùng kỳ năm 2016.
Theo các chuyên gia phân tích, dự trữ nhiên liệu chưng cất tiếp tục giảm mặc dù công suất hoạt động của các nhà máy lọc dầu Mỹ gần chạm mức cao kỷ lục.
Hiện nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm chưng cất của thị trường Mỹ đang ở mức khá cao là 4 triệu thùng/ngày, với xuất khẩu gần 1,4 triệu thùng/ngày, khiến các nhà máy lọc dầu không thể ngăn chặn được sự sụt giảm của kho dự trữ.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng trong bối cảnh đồng USD yếu đi. Tại Trung Quốc khách hàng đã quay trở lại thị trường sau kỳ nghỉ "Tuần lễ vàng".
Tại New York, giá vàng giao ngay tăng 0,6% lên 1.283,16 USD/ounce, trong khi giá vàng giao tháng 12/2017 cũng tăng 0,8% và khép phiên ở mức 1.285 USD/ounce.
Trước đó, giá vàng đã giảm bốn tuần liên tiếp khi số liệu lạc quan về tỷ lệ thất nghiệp và tăng trưởng tiền lương của Mỹ đã củng cố những đồn đoán về một đợt tăng lãi suất vào tháng 12 tới, từ đó đẩy đồng USD và lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ đi lên.
Theo giới phân tích, sự phục hồi của giá vàng lên trên mức trung bình của 200 ngày là một nhân tố kỹ thuật đã hỗ trợ giá kim loại quý này. Bên cạnh đó, giá vàng cũng hưởng lợi từ những căng thẳng địa chính trị liên quan đến CHDCND Triều Tiên và Tây Ban Nha.
Cùng phiên, giác bạc tăng 0,7% lên 16,89 USD/ounce, trong khi giá bạch kim tăng 0,3% và được giao dịch ở mức 915,75 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô giao tháng 3 tăng 0,02 US cent tương đương 0,1% lên 14 US cent/lb. Phiên trước đó (cuối tuần trước) giá đã giảm mạnh 2,9%. Đường trắng giao tháng 12 giá giảm 20 US cent tương đương 0,05% xuống 371,70 USD/tấn.
Cà phê arabica cũng tăng giá với hợp đồng giao tháng 12 tăng 0,95 US cent tương đương 0,7% lên1,3095 USD/lb; tuy nhiên robusta giao tháng 11 giá giảm 12 US cent tương đương 0,6% xuống 2.003 USD/tấn.
Về thông tin liên quan, Trung tâm giao dịch cà phê Trùng Khánh (CQCE), Trung Quốc đã trở thành sàn giao dịch cà phê lớn nhất tại Trung Quốc.
Tổng lượng giao dịch cà phê thông qua Trung tâm giao dịch cà phê Trùng Khánh (CQCE) trong 8 tháng đầu năm 2017 đạt 10 tỷ Nhân dân tệ (khoảng 1,5 tỷ USD), qua đó đưa thành phố này trở thành sàn giao dịch cà phê lớn nhất tại Trung Quốc.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
49,58
|
+0,29
|
+0,38%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
55,79
|
+0,17
|
+0,31%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
37.430,00
|
-880,00
|
-2,30%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,84
|
+0,00
|
+0,14%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
156,35
|
+0,41
|
+0,26%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
174,16
|
+0,64
|
+0,37%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
516,75
|
+3,50
|
+0,68%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
52.400,00
|
-710,00
|
-1,34%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.290,20
|
+5,20
|
+0,40%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.647,00
|
+50,00
|
+1,09%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,07
|
+0,10
|
+0,58%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
61,50
|
+1,00
|
+1,65%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
919,22
|
+2,72
|
+0,30%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
932,14
|
+1,15
|
+0,12%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
305,70
|
+2,60
|
+0,86%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.666,00
|
-0,50
|
-0,01%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.173,50
|
+20,50
|
+0,95%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
3.233,00
|
-2,00
|
-0,06%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
20.770,00
|
+220,00
|
+1,07%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
349,25
|
-0,25
|
-0,07%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
436,00
|
0,00
|
0,00%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
249,25
|
+1,00
|
+0,40%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,85
|
+0,01
|
+0,04%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
969,75
|
+3,00
|
+0,31%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
317,00
|
+1,50
|
+0,48%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
33,20
|
-0,06
|
-0,18%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
497,00
|
+0,30
|
+0,06%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.008,00
|
-77,00
|
-3,69%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
130,95
|
+0,95
|
+0,73%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
14,00
|
+0,02
|
+0,14%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
157,50
|
+0,35
|
+0,22%
|
Bông
|
US cent/lb
|
69,08
|
+0,13
|
+0,19%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
413,70
|
+1,60
|
+0,39%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
203,70
|
-3,50
|
-1,69%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,42
|
0,00
|
-0,35%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg