Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng sau khi Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) cùng một số nước sản xuất dầu khác nhất trí gia hạn thoả thuận cắt giảm sản lượng đến cuối năm 2018.
Tại thị trường New York, giá thô dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 1/2018 tăng 10 US cent lên 57,40 USD/thùng, trong khi giá dầu Brent giao cùng kỳ cũng tăng 46 US cent lên 63,57 USD/thùng.
Bộ trưởng Năng lượng, Công nghiệp và Khoáng sản của Saudi Arabia Khalid Al-Falih cho biết, 24 quốc gia trong và ngoài OPEC quyết định duy trì việc cắt giảm khoảng 1,8 triệu thùng dầu mỗi ngày đến ngày 31/12/2018. Quyết định trên không nằm ngoài tiên lượng của giới phân tích, cho dù trước cuộc họp Nga bày tỏ quan ngại về việc kéo dài thoả thuận cắt giảm sản lượng khai thác dầu mỏ.
Một trong những lo ngại lớn nhất của OPEC là sản lượng dầu mỏ của Mỹ tăng. Theo số liệu của Chính phủ Mỹ, sản lượng dầu trong nước đạt kỷ lục mới là 9,68 triệu thùng/ngày vào tuần trước. Hãng tư vấn Rystad Energy nhận định sản lượng của Mỹ sẽ đạt 9,9 triệu thùng/ngày trong tháng 12 tới, gần bằng mức của các nước sản xuất hàng đầu là Nga và Saudi Arabia.
Sự phát triển nhanh chóng của ngành khai thác dầu đá phiến Mỹ là một trong những nguyên nhân chủ chốt châm ngòi cho "vàng đen" rớt giá mạnh từ ngưỡng trên 100 USD/thùng hồi năm 2014. Tuy nhiên, kể từ sau khi giá dầu rớt xuống dưới ngưỡng 30 USD/thùng hồi đầu năm 2016, ngành dầu mỏ thế giới đã dần phục hồi, trong bối cảnh giá dầu ổn định trở lại.
Mặc dù Bộ trưởng Năng lượng Nga, Alexander Novak, bày tỏ sự ủng hộ đối với việc gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng, song Moskva và các công ty dầu mỏ của nước này vẫn lo ngại rằng giá dầu phục hồi sẽ càng thôi thúc các nhà sản xuất dầu mỏ của Mỹ tiếp tục gia tăng sản lượng và chiếm thêm thị phần. Chính bởi vậy, Nga muốn xem xét thảo thuận trên một lần nữa vào giữa năm 2018, đồng thời yêu cầu minh bạch về cách thức và thời gian để kết thúc nỗ lực kiềm chế nguồn cung này.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm trong bối cảnh USD và chứng khoán Mỹ tăng điểm và số liệu tích cực từ kinh tế Mỹ làm giảm sức hấp dẫn của vàng.
Giá vàng giao ngay giảm 0,7% xuống 1.274,51 USD/ounce, sau khi có thời điểm rơi xuống 1.270,11 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 14/11; vàng giao tháng 2/2018 giảm 9,5 USD (0,74%) xuống 1.276,7 USD/ounce.
Ngoài ra, số liệu lạc quan về GDP của Mỹ, cùng với những tín hiệu về sự tiến triển trong kế hoạch cải cách thuế của nước này và tiến trình đàm phán về việc nước Anh rời khỏi Liên minh châu Âu (EU) đã giúp các thị trường chứng khoán tăng điểm lên những mức cao mới, qua đó tạo sức ép giảm đối với giá vàng.
Theo các chuyên gia, giá vàng chịu sức ép từ sự tăng giá của đồng USD theo sau số liệu về chi tiêu tiêu dùng và tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ. Trong một phát biểu mới đây, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed), Janet Yellen, nhận định sức tăng trưởng của kinh tế Mỹ có thể cho phép tiếp tục triển khai các đợt nâng lãi suất, giữa lúc đà phục hồi của kinh tế toàn cầu được củng cố. Giá vàng luôn tỏ ra “nhạy cảm” với các đợt tăng lãi suất của Mỹ - nhân tố làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ tài sản không sinh lời như vàng.
Việc thiếu các nhân tố định hướng khiến giá vàng trong tháng 11/2017 dao động trong khoảng 1.265 USD-1.300 USD/ounce, biên độ hẹp nhất tính theo tháng trong 12 năm qua.
Về những kim loại quý khác, giá bạc trong phiên này có thời điểm giảm xuống 16,30 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 6/10. Trong khi đó, giá bạch kim tăng 0,6% lên 941,80 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, đường thô giao tháng 3 giá tăng 0,01 US cent tương đương 0,1% lên 15,08 US cent/lb do hoạt động mua bù, tính chung cả tháng 11 tăng 2,3%; đường trắng giao tháng 3 giá tăng 1,1 USD tương đương 0,3% lên 390,40 USD/tấn.
Giá cà phê arabica giảm 3,7 US cent tương đương 2,8% xuống 1,285 USD/lb, trong phiên có lúc giá lên mức cao nhất 7 tuần là 1,33 USD, tính chung cả tháng 11 giảm 0,8%. Robusta giao tháng 1/2018 giảm 40 USD trong phiên này, tương đương 2,3%, xuống1.276 USD/tấn, do thời tiết tốt lên ở Việt Nam hứa hẹn nguồn cung sẽ tăng; robusta giao tháng 11/2017 vững ở 1.793 USD/tấn, cao hơn 67 USD so với hợp đồng giao tháng 1.
Chỉ trong vòng ba tháng trở lại đây, giá London mất nhiều (-13,90%).
Tính từ đầu năm 2017 đến hết cuối tuần trước, kết quả thực hiện của hai sàn kỳ hạn cà phê robusta và arabica đều giảm mạnh với London mất 18,43% và New York giảm 13,40%.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

1/12

+/-

+/-(%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

57,40

+0,10

+0,67%

Dầu Brent

USD/thùng

63,57

+0,46

+1,53%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

41.660,00

-270,00

-0,64%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

3,08

-0,10

-3,21%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

173,54

+0,45

+0,26%

Dầu đốt

US cent/gallon

191,93

-0,28

-0,15%

Dầu khí

USD/tấn

558,00

-4,00

-0,71%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

56.740,00

-170,00

-0,30%

Vàng New York

USD/ounce

1.284,00

-2,20

-0,17%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.597,00

-18,00

-0,39%

Bạc New York

USD/ounce

16,45

-0,12

-0,70%

Bạc TOCOM

JPY/g

59,50

-0,30

-0,50%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

945,44

+5,89

+0,63%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

1.015,52

-0,37

-0,04%

Đồng New York

US cent/lb

308,35

+1,50

+0,49%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

6.760,00

-45,00

-0,66%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

2.068,00

-34,50

-1,64%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

3.157,00

-1,00

-0,03%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

19.525,00

-25,00

-0,13%

Ngô

US cent/bushel

355,75

+2,25

+0,64%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

436,75

+2,00

+0,46%

Lúa mạch

US cent/bushel

260,75

-3,00

-1,14%

Gạo thô

USD/cwt

12,40

+0,03

+0,20%

Đậu tương

US cent/bushel

987,75

-4,75

-0,48%

Khô đậu tương

USD/tấn

324,40

-2,90

-0,89%

Dầu đậu tương

US cent/lb

34,24

+0,17

+0,50%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

511,80

+1,40

+0,27%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.060,00

-46,00

-2,18%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

132,40

+0,20

+0,15%

Đường thô

US cent/lb

15,27

+0,20

+1,33%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

162,25

-1,25

-0,76%

Bông

US cent/lb

73,29

-0,14

-0,19%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

424,90

+3,10

+0,73%

Cao su TOCOM

JPY/kg

198,00

-0,30

-0,15%

Ethanol CME

USD/gallon

1,36

+0,01

+0,44%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg