Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm cùng chiều với thị trường chứng khoán Phố Wall khi những diễn biến liên quan đến các cuộc đàm phán thương mại Mỹ - Trung gây hoang mang cho giới đầu tư.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc giao tháng 7/2019 giảm 39 US cent xuống 70,23 USD/thùng, trong khi giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 62 US cent xuống 61,04 USD/thùng.
Giá dầu chịu áp lực từ sự sụt giảm của thị trường chứng khoán Mỹ cũng như các loại tài sản rủi ro khác, khi giới đầu tư tìm đến các kênh trú ẩn an toàn như trái phiếu chính phủ của Mỹ trước sự leo thang trong căng thẳng thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Trung Quốc tuyên bố sẽ tăng thuế đối với lượng hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ trị giá 60 tỷ USD kể từ ngày 1/6 tới. Theo hãng tin Bloomberg, thông báo ngày 13/5 trên trang web của Chính phủ Trung Quốc cho biết gần 2.500 hàng hóa Mỹ sẽ chịu mức thuế 25%. Trong khi đó, Reuters dẫn nguồn tin Bộ Tài chính Trung Quốc cho hay Bắc Kinh sẽ áp đặt mức thuế mới với tổng cộng 5.140 mặt hàng nhập khẩu từ Mỹ.
Phản ứng trên được cho là nhằm đáp trả quyết định của Mỹ ngày 10/5 vừa qua về việc tăng thuế từ 10% lên 25% đối với số hàng hóa nhập khẩu từ Bắc Kinh với tổng trị giá 200 tỷ USD.
Trước đó trong phiên, giá dầu đã tăng hơn 1 USD/thùng sau khi Saudi Arabia ngày 13/5 cho biết hai tàu chở dầu của quốc gia này đã bị "tấn công phá hoại" ở ngoài khơi thành phố cảng Fujairah của Các Tiểu vương quốc Arập Thống nhất (UAE).
Trước đó, ngày 12/5, Bộ Ngoại giao UAE thông báo có bốn tàu thương mại đã bị tấn công phá hoại ở vùng biển gần lãnh hai nước này tại Vịnh Oam, phía Đông cảng Fujairah, nơi được xem là có vị trí chiến lược, án ngữ các tuyến vận tải biển ở Vịnh Pécxích. Khoảng một phần ba lượng dầu mỏ xuất khẩu vận chuyển đường biển đi qua eo biển này.
Giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng lên mức cao nhất 4 tuần, do xuất khẩu khí tự nhiên hóa lỏng đạt mức cao kỷ lục và dự kiến nhu cầu trong tuần tới cao hơn so với dự báo trước đó làm lu mờ tin về sản lượng gia tăng. Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 6/2019 trên sàn New York tăng 0,2 US cent tương đương 0,1% lên 2,621 USD/mBTU, cao nhất kể từ ngày 12/4/2019.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng giữa bối cảnh các nhà đầu tư tìm đến vàng như một nơi trú ẩn an toàn, trước quan hệ thương mại căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc.
Giá vàng giao ngay tăng 1,1% lên 1.299,30 USD/ounce, sau khi có lúc vọt lên 1.301,10 USD/ounce, mức cao nhất kể từ ngày 11/4; giá vàng giao sau tăng 1,1% và đóng phiên ở mức 1.301,80 USD/ounce.
Chiến lược gia Phillip Streible, thuộc RJO Futures, nhận định nguy cơ địa chính trị và căng thẳng thương mại gia tăng, đồng USD đi xuống, chứng khoán chịu sức ép là những nhân tố đẩy giá vàng đi lên. Chỉ số đồng USD rơi xuống mức thấp trong hơn ba tuần, khiến vàng trở nên hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư nắm giữ đồng tiền khác.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,1% lên 14,77 USD/ounce, còn giá bạch kim giảm 1,5% xuống 847,90 USD/ounce và giá palađi giảm 2,5% xuống 1.323,51 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá chì giảm xuống mức thấp nhất gần 3 năm do lo ngại nhu cầu kim loại công nghiệp sẽ giảm bởi những căng thẳng thương mại mới giữa Mỹ và Trung Quốc. Giá chì kỳ hạn trên sàn London giảm 2% xuống 1.785 USD/tấn, thấp nhất kể từ ngày 9/8/2016.
Đây là thời điểm nhu cầu tiêu thụ chì rơi xuống mức thấp nhất trong khi nguồn cung tái chế tăng, Colin Hamilton, giám đốc nghiên cứu hàng hóa thuộc BMO Capital cho biết.
Giá quặng sắt và thép tại Trung Quốc diễn biến trái chiều, do các nhà đầu tư tiếp tục lo ngại về tăng trưởng kinh tế chậm lại trong bối cảnh căng thẳng thương mại giữa Washington và Bắc Kinh gia tăng.
Giá thép cây kỳ hạn trên sàn Thượng Hải giảm 1,2% xuống 3.691 CNY (537,73 USD)/tấn. Giá thép cuộn cán nóng giảm 1,7% xuống 3.611 CNY/tấn. Trong khi đó, giá quặng sắt kỳ hạn trên sàn Đại Liên tăng 1% lên 653,5 CNY/tấn, do dự trữ quặng sắt nhập khẩu chạm mức thấp nhất kể từ tháng 10/2017 xuống 133,6 triệu tấn, công ty tư vấn SteelHome cho biết.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 7/2019 giảm 1,2 US cent tương đương 1,3% xuống 89,6 US cent/lb, giảm phiên thứ 3 liên tiếp trong 5 phiên. Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 7/2019 giảm 18 USD tương đương 1,3% xuống 1.346 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất 9 năm trong tuần trước (1.267 USD/tấn).
Giá đường tăng do hoạt động mua vào, trong khi giá cà phê giảm. Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn ICE tăng 0,12 US cent tương đương 1% lên 11,84 US cent/lb. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2019 trên sàn ICE tăng 2,8 USD tương đương 0,9% lên 326,4 USD/tấn.
Giá đậu tương tại Mỹ giảm xuống mức thấp nhất 10 năm, do căng thẳng Mỹ - Trung leo thang làm giảm kỳ vọng hoạt động xuất khẩu đậu tương. Đồng thời, tiến độ trồng trọt tại khu vực trung tây Mỹ bị chậm lại có thể khiến những người nông dân chuyển diện dịch trồng ngô sang đậu tương, đẩy nguồn cung đậu tương gia tăng.
Giá đậu tương kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn Chicago giảm 4-1/2 US cent xuống 8,04-3/4 USD/bushel, trong phiên có lúc chạm 7,91 USD/bushel, thấp nhất kể từ tháng 12/2008.
Giá dầu cọ tại Malaysia giảm phiên thứ 4 liên tiếp xuống thấp nhất 5,5 tháng, do lo ngại về chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và dự kiến sản lượng trong những tháng tới sẽ tăng gây áp lực thị trường.
Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 7/2019 trên sàn Bursa Malaysia giảm 0,6% xuống 1.972 ringgit (473,75 USD)/tấn, sau khi giảm 1,3% trong tuần trước đó, trong phiên có lúc chạm 1.960 ringgit/tấn, thấp nhất kể từ ngày 27/11/2018.
Giá cao su tại Tokyo tăng do hoạt động mua mang tính kỹ thuật, song bế tắc trong các cuộc đàm phán thương mại Mỹ - Trung Quốc làm gia tăng lo ngại về triển vọng nền kinh tế toàn cầu và hạn chế đà tăng.
Giá cao su kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn TOCOM tăng 0,6 JPY tương đương 0,3% lên 187,3 JPY (1,7 USD)/kg. Trong khi giá cao su TSR20 kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn TOCOM giảm 0,2% xuống 162,3 JPY/kg.
Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2019 trên sàn Thượng Hải tăng 90 CNY lên 11.905 CNY (1.732 USD)/tấn.
Nhà phân tích hàng hóa Satoru Yoshida thuộc Rakuten Securities dự kiến giá cao su trên sàn TOCOM sẽ dao động trong phạm vi hẹp từ 186 – 190 JPY/kg.

Giá hàng hóa thế giới

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

61,04

-0,62

 

Dầu Brent

USD/thùng

70,23

-0,39

 

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

44.480,00

-500,00

-1,11%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,64

+0,02

+0,57%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

196,43

+0,06

+0,03%

Dầu đốt

US cent/gallon

203,73

-0,11

-0,05%

Dầu khí

USD/tấn

632,00

-7,25

-1,13%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

61.390,00

-510,00

-0,82%

Vàng New York

USD/ounce

1.302,50

+0,70

+0,05%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.566,00

+46,00

+1,02%

Bạc New York

USD/ounce

14,82

+0,04

+0,29%

Bạc TOCOM

JPY/g

52,40

+0,60

+1,16%

Bạch kim

USD/ounce

862,11

+8,71

+1,02%

Palađi

USD/ounce

1.330,23

+5,73

+0,43%

Đồng New York

US cent/lb

273,40

+1,50

+0,55%

Đồng LME

USD/tấn

6.011,00

-115,00

-1,88%

Nhôm LME

USD/tấn

1.809,00

+1,00

+0,06%

Kẽm LME

USD/tấn

2.567,00

-63,00

-2,40%

Thiếc LME

USD/tấn

19.325,00

-300,00

-1,53%

Ngô

US cent/bushel

362,50

+6,00

+1,68%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

439,75

+2,75

+0,63%

Lúa mạch

US cent/bushel

285,25

+2,00

+0,71%

Gạo thô

USD/cwt

10,99

0,00

-0,05%

Đậu tương

US cent/bushel

815,00

+12,50

+1,56%

Khô đậu tương

USD/tấn

289,60

+2,30

+0,80%

Dầu đậu tương

US cent/lb

26,79

+0,18

+0,68%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

439,80

+3,90

+0,89%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.287,00

-25,00

-1,08%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

89,60

-1,20

-1,32%

Đường thô

US cent/lb

11,84

+0,12

+1,02%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

95,80

+0,75

+0,79%

Bông

US cent/lb

65,39

-0,06

-0,09%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

343,50

-15,00

-4,18%

Cao su TOCOM

JPY/kg

187,70

+0,40

+0,21%

Ethanol CME

USD/gallon

1,31

+0,01

+0,38%

Nguồn: Bloomberg, Reuters, CafeF

 

 

Nguồn: Vinanet