Trên thị trường năng lượng, giá dầu thế giới tăng bởi thị trường đồn đoán Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) sẽ cắt giảm sản lượng.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 12/2018 tăng 0,56 USD lên 56,25 USD/thùng; dầu Brent giao tháng 1/2019 cũng tăng 0,65 USD lên 66,12 USD/thùng.
Sau kỷ lục 12 ngày giảm giá liên tiếp và một ngày mất giá mạnh nhất trong hơn 3 năm, thị trường dầu đã đảo chiều sau khi Reuters thông tin rằng OPEC và các đối tác của họ đang bàn luận một đề xuất cắt giảm sản lượng lên tới 1,4 triệu thùng/ngày nhiều hơn so với các quan chức đã đề cập trước đó.Có tin OPEC và các đối tác của tổ chức này đang thảo luận về việc cắt giảm sản lượng dầu mỏ tới 1,4 triệu thùng/ngày trong năm 2019, để tránh tình trạng dư cung khiến giá dầu thô sụt giảm. Kể từ tháng 10/2018, giá dầu đã giảm 25% xuống dưới 70 USD/thùng và ghi nhận mức thấp nhất trong tám tháng.
Viện Xăng dầu Mỹ (API) cho biết dự trữ dầu thô của nước này trong tuần kết thúc vào 9/11/2018 đã tăng thêm 8,79 triệu thùng, so với mức tăng 7,83 triệu thùng của tuần trước đó.
Thời gian gần đây, thị trường dầu mỏ chịu áp lực bởi nguồn cung đang tăng từ OPEC, Nga, Mỹ và các nhà sản xuất khác cùng với những lo lắng rằng kinh tế toàn cầu chậm lại có thể làm giảm nhu cầu năng lượng. Điều này đã thúc đẩy giá dầu Brent giảm hơn 20% kể từ đầu tháng 10, mức sụt giảm lớn nhất kể từ khi giá dầu sụt giảm trong năm 2014.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) dự báo nguồn cung dầu mỏ toàn cầu sẽ vượt cầu trong năm 2019, giữa bối cảnh sản lượng tiếp tục tăng lên trong lúc nhu cầu và mức tiêu thụ đối mặt với nguy cơ sụt giảm do kinh tế các nước tăng trưởng chậm lại.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) dự báo sản lượng dầu thô của Mỹ từ 7 khu vực đá phiên chính tăng lên mức kỷ lục 7,94 triệu thùng/ngày trong tháng 12/2018. Hầu hết giới phân tích dự kiến sản lượng của Mỹ tăng trên 12 triệu thùng/ngày trong nửa đầu năm 2019.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tăng trong bối cảnh đồng USD giảm nhẹ.
Cuối phiên, vàng giao ngay tăng 1% lên 1.214,14 USD/ounce, mức tăng lớn nhất tính theo ngày của kim loại quý này trong gần hai tuần qua; vàng giao tháng 12 tăng 8,7 USD (0,72%) lên 1.210,1 USD/ounce. Còn giá vàng . Giá vàng đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ ngày 11/10 là 1.195,90 USD/
Chỉ số đồng USD, thước đo giá trị đồng bạc xanh so với giỏ sáu đồng tiền chính trên thị trường, đã giảm 0,21% xuống 96,96 (điểm) vào cuối phiên, sau khi đạt mức cao của 16 tháng trong phiên 12/11. Chỉ số đồng USD sụt giảm là do số liệu cho thấy lạm phát tại Mỹ đã tăng mạnh nhất kể từ tháng 1/2018.
Giá vàng đã giảm khoảng 11% giá trị so với mức “đỉnh” đạt được hồi tháng Tư do các nhà đầu tư hướng sang đồng bạc xanh. Đồng bạc xanh được hưởng lợi trong tuần qua nhờ đồn đoán Mỹ tiếp tục nâng lãi suất cũng như những lo ngại về vấn đề ngân sách của Italy và cuộc đàm phán về Brexit.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 1% lên 14,12 USD/ounce sau khi tụt xuống 13,85 USD/ounce, mức thấp nhất kể từ ngày 21/1/2016. Giá palađi giao ngay tăng khoản 1,5% lên 1.126,20 USD/ounce, còn giá bạch kim sụt giảm 0,1% xuống 833,90 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá hầu hết không thay đổi nhiều do doanh số bán lẻ của Trung Quốc yếu đã lấy đi sự lạc quan về sản lượng công nghiệp và số liệu đầu tư tại quốc gia này. Giá đồng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) kết thúc phiên tăng 0,3% lên 6.090 USD/tấn. Nhôm LME đóng cửa tăng 0,4% lên 1.943 USD/tấn sau khi chạm mức thấp 15 tháng trong ngày 13/11. Kẽm tăng 0,5% lên 2.502 USD/tấn, chì tăng 0,1% lên 1.953 USD/tấn, thiếc tăng 0,2% lên 19.305 USD/tấn, trong khi nickel chạm mức thấp mới trong 11 tháng giảm 0,3% xuống 11.315 USD/tấn.
Doanh số bản lẻ tại Trung Quốc trong tháng 10 tăng ở tốc độ thấp nhất kể từ tháng 5/2018, cho thấy tiêu dùng chậm lại, ngay cả khi sản lượng công nghiệp và đầu tư phục hồi.
Trong khi đó giá dầu sụt giảm trong ngày 13/11 đã ảnh hưởng tới kim loại và các tài sản khác như chứng khoán.
Cố vấn kinh tế hàng đầu của Tổng thống Mỹ Donald Trump nói rằng "bây giờ khá rõ ràng" Tổng thống Trump sẽ gặp Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại hội nghị thượng đỉnh G20 vào cuối tháng này, một ngày sau khi nhà thương thuyết hàng đầu Trung Quốc Liu He nói ông có thể đến Washington để chuẩn bị cho cuộc đàm phán.
Các nhà máy luyện đồng của Trung Quốc đang tìm cách đầu tư nhiều hơn vào các mỏ, đẩy mạnh nguồn cung quặng tại một thời điểm khi sự cạnh tranh nguyên liệu thô này đang nóng lên.
Sản lượng nhôm cơ bản của Trung Quốc giảm tháng thứ 3 liên tiếp trong tháng 10/2018, do giá nhôm thấp khiến các nhà máy luyện giảm sản xuất ngay cả trước khi hạn chế trong mùa đông của chính phủ bắt đầu. Thị trường chì toàn cầu thiếu hụt tới 21.400 tấn trong tháng 9/2018 trong khi thiếu hụt kẽm giảm xuống 54.700 tấn.
Giá thép tại Trung Quốc phục hồi từ mức thấp nhiều tháng bất chấp sản lượng thép cao kỷ lục trong tháng 10/2018, do các nhà đầu tư dự kiến Bắc Kinh tiếp tục tăng cường kích thích kinh tế trong bối cảnh số liệu kinh tế trái chiều.
Số liệu của Cục Thống kê Quốc gia cho biết nước này đã sản xuất tổng cộng 82,55 triệu tấn thép thô trong tháng 10/2018, mức cao nhất trong ít nhất 8 năm, cho thấy các nhà máy thép đang duy trì công suất làm việc ở mức cao trước khi hạn chế sản xuất trong mùa đông.
Tăng trưởng đầu tư tài sản cố định lên 5,7% trong giai đoạn 10 tháng đầu năm nay. Tuy nhiên, tăng trưởng đầu tư bất động sản trong tháng 10/2018 giảm xuống mức thấp nhất 10 tháng và doanh số bán nhà giảm tiếp do các nhà phát triển kiềm chế các kế hoạch mở rộng đối mặt với nhu cầu đang yếu.
Trong khi đó tăng trưởng tín dụng tại nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này giảm mạnh trong tháng 10, với cho vay hộ gia đình giảm xuống 563,6 tỷ CNY từ 754,4 tỷ CNY trong tháng 9/2018.
Dự trữ thép tại các nhà máy của Trung Quốc tiếp tục giảm trong tuần trước xuống 8,91 triệu tấn, mức thấp nhất kể từ giữa tháng 1/2018.
Giá thép cây xây dựng đóng cửa tăng 1,8% lên 3.937 CNY (566,47 USD), cũng thúc đẩy bởi gián đoạn nguồn cung tạm thời sau khi tỉnh sản xuất thép hàng đầu Hà Bắc công bố cảnh báo mức khói bụi màu vàng yêu cầu các nhà máy thép dừng hoạt động từ ngày 12/11 tới ngày 15/11. Quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2019 trên sàn giao dịch Đại Liên giảm 0,7% xuống 512 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá đường trắng kết thúc phiên tăng 5,1 USD hay 1,17% lên 346,6 USD/tấn. Đường thô kỳ hạn tháng 3/2018 tăng 0,04 US cent hay 0,3% lên 12,65 US cent/lb, đảo chiều sau khi chạm 12,53 US cent, yếu nhất kể từ ngày 5/10/2018.
Thị trường tập trung vào Ấn Độ nơi có thể sản xuất đường ít hơn dự báo 7,4% do các nhà máy báo cáo sản lượng mía đường giảm mạnh bởi hạn hán và nhiễm ấu trùng trắng tại các khu vực trồng chính.
Giá đường toàn cầu bị áp lực giảm trong những tháng gần đây bởi lo lắng rằng nước tiêu thụ đường hàng đầu sẽ phải xuất khẩu một lượng dư thừa khổng lồ ra thị trường thế giới.
Cao su kỳ hạn Tokyo tiếp tục tăng trong phiên qua nhưng vẫn giao dịch gần mức thấp 26 tháng đã đạt được trong phiên trước đó trong bối cảnh lo lắng về nhu cầu toàn cầu yếu.
Cao su kỳ hạn tháng 4/2019 trên sàn giao dịch hàng hóa Tokyo đóng cửa tăng 0,5 JPY lên 159,8 JPY (1,4 USD)/kg. Hợp đồng này đã giảm xuống mức thấp nhất 26 tháng trong ngày 13/11. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 1/2019 trên sàn giao dịch Thượng Hải tăng 130 CNY đóng cửa tại 11.285 CNY (1.623 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

56,25

+0,56

Dầu Brent

USD/thùng

66,12

+0,65

+0,99%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

46.000,00

+550,00

+1,21%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

4,67

-0,16

-3,37%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

154,94

-1,12

-0,72%

Dầu đốt

US cent/gallon

209,87

+0,28

+0,13%

Dầu khí

USD/tấn

644,50

+5,50

+0,86%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

62.160,00

+260,00

+0,42%

Vàng New York

USD/ounce

1.210,90

+0,80

+0,07%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.405,00

+18,00

+0,41%

Bạc New York

USD/ounce

14,11

+0,03

+0,21%

Bạc TOCOM

JPY/g

51,60

+0,10

+0,19%

Bạch kim

USD/ounce

836,67

+1,36

+0,16%

Palađi

USD/ounce

1.129,33

+1,31

+0,12%

Đồng New York

US cent/lb

271,10

+0,10

+0,04%

Đồng LME

USD/tấn

6.090,00

+17,00

+0,28%

Nhôm LME

USD/tấn

1.943,00

+7,50

+0,39%

Kẽm LME

USD/tấn

2.502,00

+13,00

+0,52%

Thiếc LME

USD/tấn

19.305,00

+35,00

+0,18%

Ngô

US cent/bushel

367,00

+0,50

+0,14%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

512,00

-5,75

-1,11%

Lúa mạch

US cent/bushel

288,50

+4,00

+1,41%

Gạo thô

USD/cwt

10,87

-0,03

-0,28%

Đậu tương

US cent/bushel

883,50

+5,25

+0,60%

Khô đậu tương

USD/tấn

307,60

+1,80

+0,59%

Dầu đậu tương

US cent/lb

27,57

+0,02

+0,07%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

478,20

-2,60

-0,54%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.210,00

-45,00

-2,00%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

116,20

+3,45

+3,06%

Đường thô

US cent/lb

12,65

+0,04

+0,32%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

133,55

-0,60

-0,45%

Bông

US cent/lb

78,35

+0,69

+0,89%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

356,30

+15,00

+4,39%

Cao su TOCOM

JPY/kg

158,60

-1,20

-0,75%

Ethanol CME

USD/gallon

1,26

+0,02

+1,62%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg