Trên thị trường năng lượng, giá dầu biến động nhẹ giữa lúc các số liệu mới nhất cho thấy dự trữ dầu thô của Mỹ giảm thấp hơn dự đoán.
Khép phiên này, dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 1/2020 giảm 1 US cent xuống 60,93 USD/thùng, trong khi dầu Brent Biển Bắc giao tháng 2/2020 tăng 7 US cent lên 66,17 USD/thùng.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết tồn trữ dầu thô của nước này giảm 1,1 triệu thùng trong tuần tới 163/12, xuống 446,8 triệu thùng, ít hơn mức dự báo của các nhà phân tích là giảm 1,3 triệu thùng, nhưng vẫn cao hơn khoảng 4% so với mức trung bình của 5 năm. Tồn trữ xăng và các sản phẩm chưng cất đã tăng lần lượt 2,5 triệu thùng trong tuần qua, lên 237,3 triệu thùng và 1,5 triệu thùng lên 125,1 triệu thùng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm trong bối cảnh USD mạnh lên do nhận định Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ không cắt giảm lãi suất thêm nữa trong tương lai gần.
Cuối phiên giao dịch, vàng giao ngay giảm 0,1% xuống 1.474,91 USD/ounce, trong khi vàng kỳ hạn tháng 2/2020 giảm 0,1% xuống 1.478,70 USD/ounce.
Số liệu từ Mỹ cho thấy sản xuất công nghiệp của nước này tháng 11/2019 tăng nhiều hơn dự kiến. Số liệu này làm gia tăng đồn đoán Fed sẽ chưa vội cắt giảm lãi suất. Theo các chuyên gia, vàng rất nhạy cảm với các đợt tăng lãi suất của Mỹ, bởi động thái này làm tăng chi phí nắm giữ vàng, trong khi thúc đẩy đồng USD.
Nhà phân tích Edward Meir thuộc ED&F Man Capital Markets nhận định đà tăng của đồng bạc xanh gây áp lực lên giá vàng. Bên cạnh đó, thỏa thuận thương mại mới đây giữa Mỹ và Trung Quốc cũng làm giảm sức hấp dẫn của kim loại quý này như một nơi trú ẩn an toàn.
Trong báo cáo mới đây nhất, Goldman Sachs đã giữ nguyên dự báo về giá vàng trong vòng 3, 6 và 12 tháng tới ở mức 1.600 USD/ounce với lý do lo ngại về suy thoái và sự bất ổn chính trị sẽ thúc đẩy nhu cầu đầu tư vào kim loại này.
Palađi đã giảm từ mức cao kỷ lục (gần 2000 USD) của phiên giao dịch trước. Đóng cửa phiên vừa qua, palađi giảm 1,5% xuống 1.925,48 USD/ounce. Một số nhà phân tích cho hay, từ nay đến hết năm 2019, giá kim loại quý này có thể sẽ bớt "nóng", nhưng tình trạng thắt chặt nguồn cung sẽ chưa thể sớm được giải quyết.
Về các kim loại quý khác, giá bạch kim tăng 0,7% lên 933,74 USD/ounce, trong khi bạc giảm 0,1% xuống 16,99 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm khỏi mức cao nhất 7 tháng sau khi Trung Quốc công bố số liệu về sản xuất khiến các nhà đầu tư tạm thời giảm tốc độ mua vào.
Đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,5% xuống 6.172 USD/tấn. Phiên liền trước, giá đạt 6.223 USD/tấn – cao nhất kể từ 8/5.
Kim loại đỏ này đã tăng giá khoảng 6% trong tháng này do Mỹ - Trung đạt thỏa thuận Giai đoạn 1 và một vài số liệu tích cực hơn dự đoán giúp giảm bớt lo ngại về triển vọng kinh tế toàn cầu.
Trung Quốc, nhà tiêu thụ kim loại lớn nhất thế giới, đã đưa ra nhiều biện pháp kích thích kinh tế, trong đó mới đây nhất là việc Ngân hàng trung ương (PBoC) ngày 18/11 hạ tỷ lệ lãi suất của các hợp đồng mua lại đảo ngược kỳ hạn bảy ngày từ 2,55% xuống còn 2,5%, trước đó 2 tuần PBoC đã hạ lãi suất cho vay trung hạn với cùng mức giảm. Nhập khẩu đồng tinh chế vào nước này trong tháng 11/2019 đã tăng 19,6% so với cùng kỳ năm trước, lên 909.000 tấn.
Nhà phân tích của Macquarie, ông Marcus Garvey, dự báo giá đồng sẽ đạt trung bình 5.825 USD/tấn trong năm tới.
Trong số các kim loại cơ bản khác, giá nickel giảm 0,6% xuống 13.870USD/tấn, nhôm tăng 0,7% lên 1.777 USD/tấn theo xu hướng giá tại Thượng Hải, kẽm tăng 0,9% lên 2.301 USD/tấn, chì tăng 2% lên 1.926 USD/tấn và thiếc giảm 0,2% xuống 17.295 USD/tấn.
Giá thép trên sàn Thượng Hải giảm trong phiên vừa qua do thành phố sản xuất thép hàng đầu Trung Quốc dỡ bỏ cảnh báo về khói bụi giúp giảm lo ngại về nguồn cung mặt hàng này.
Thép cây kỳ hạn tháng 5/2020 giảm 0,1% xuống 3.476 CNY (493,83 USD)/tấn. Tuy nhiên, thép cuộn cán nóng vẫn tăng 0,4% lên 3.538 CNY/tấn. Quặng sắt cũng theo xu hướng giảm, trong đó kỳ hạn tháng 5/2020 giảm 0,9% xuống 635 CNY/tấn, là phiên giảm thứ 3 liên tiếp.
Thành phố Tanghan – nơi sản xuất thép hàng đầu Trung Quốc – đã dỡ bỏ "cảnh báo khói bụi màu cam" vào chiều ngày 17/12/2019. Sản lượng thép Trung Quốc tháng 11/2019 tăng 3,9% so với một năm trước đó, đạt 79,25 triệu tấn, theo số liệu của Tổng cục Thống kê Trung Quốc.
Trên thị trường
nông sản, giá cà phê arabica tăng trong phiên vừa qua mặc dù không chắc xu hướng tăng sẽ còn kéo dài sau khi gần đây giá đã lập kỷ lục cao nhất hơn 2 năm.
Lúc đóng cửa phiên giao dịch, arabica kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 0,15 US cent, tương đương 0,1%, lên 1,3385 USD/lb; robusta cũng giao cùng kỳ hạn cũng tăng 15 USD (1,1%) lên 1.431 USD/tấn.
Giá cà phê đã tăng mạnh kể từ giữa tháng 10 do các quỹ đầu tư tích cực mua vào bởi nguồn cung khan hiếm, thể hiện ở lượng tồn trữ arabica giảm mạnh và dự báo toàn cầu sẽ thiếu hụt nguồn cung trong năm 2019/20. Lo ngại khô hạn ở Brazil hạn chế sản lượng của nước này trong năm 2020 càng góp phần đẩy giá tăng lên. Một số vùng của Brazil đã quá khô hạn trong suốt giai đoạn tháng 9-10 vừa qua. Tuy nhiên, chưa rõ đà tăng sẽ kéo dài đến bao giờ.
Đường cũng tăng bởi dự báo sẽ thiếu hụt nguồn cung trên toàn cầu trong năm 2019/20. Đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn New York tăng 0,15 US cent (1,1%) lên 13,42 US cent/lb, trong khi đường trắng giao cùng kỳ hạn tăng 2,40 USD (0,7%) lên 355,10 USD/tấn.
Giá cao su tại Tokyo giảm vào cuối phiên vừa qua theo xu hướng ở Thượng Hải. Hợp đồng kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn TOCOM giảm 1,4 JPY (0,0129 USD) xuống 199,5 JPY/kg, trong khi hợp đồng giao cùng kỳ hạn giảm 135 CNY (19,18 USD) xuống 13.050 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
60,93
|
-0,01
|
-0,02%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
66,10
|
0,00
|
0,00%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
41.730,00
|
+330,00
|
+0,80%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,29
|
-0,03
|
-1,42%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
168,38
|
-0,19
|
-0,11%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
202,03
|
-1,31
|
-0,64%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
611,75
|
-1,75
|
-0,29%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
58.620,00
|
+250,00
|
+0,43%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.478,70
|
-1,90
|
-0,13%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
5.189,00
|
+1,00
|
+0,02%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,05
|
-0,02
|
-0,13%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
60,00
|
0,00
|
0,00%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
936,25
|
-0,19
|
-0,02%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.922,99
|
0,00
|
0,00%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
281,25
|
-0,10
|
-0,04%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
6.200,00
|
+1,00
|
+0,02%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.764,00
|
-14,00
|
-0,79%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.281,50
|
-9,50
|
-0,41%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
17.325,00
|
+150,00
|
+0,87%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
387,00
|
-3,00
|
-0,77%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
548,25
|
-8,00
|
-1,44%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
299,50
|
-7,00
|
-2,28%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
13,04
|
+0,09
|
+0,66%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
940,50
|
-0,25
|
-0,03%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
307,40
|
+1,00
|
+0,33%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
33,72
|
-0,38
|
-1,11%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
474,80
|
-0,30
|
-0,06%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.506,00
|
-28,00
|
-1,11%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
133,20
|
-0,50
|
-0,37%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
13,43
|
+0,16
|
+1,21%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
97,70
|
+0,40
|
+0,41%
|
Bông
|
US cent/lb
|
66,74
|
+0,30
|
+0,45%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
406,80
|
+0,40
|
+0,10%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
197,20
|
-2,30
|
-1,15%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,36
|
-0,01
|
-0,88%
|