Trên thị trường năng lượng, giá dầu có lúc tăng lên mức cao nhất trong vòng nhiều tuần khi có tin OPEC “bóng gió” về việc duy trì cắt giảm sản lượng nhằm đẩy giá dầu lên trong năm nay.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 34 UScent lên 63,1 USD/thùng sau khi có lúc chạm mức 63,81 USD/thùng – mức cao nhất kể từ phiên 1/5; dầu Brent Biển Bắc giảm 24 US cent xuống 71,97 USD/thùng, sau khi có lúc lên mức 73,4 USD/thùng – mức cao nhất kể từ phiên 26/4/2019.
Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia Khalid al-Falih ngày 19/5 cho biết Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước đồng minh ngoài khối này nhất trí giảm dần lượng dầu thô dự trữ, song Saudi Arabia sẽ có phản ứng khi thị trường năng lượng suy yếu.
OPEC và các đối tác chủ chốt ngoài khối (còn gọi là nhóm OPEC+) đã nhất trí giảm sản lượng khoảng 1,2 triệu thùng/ngày trong vòng 6 tháng kể từ ngày 1/1/2019. Thỏa thuận này được “thiết kế” nhằm ngăn chặn các kho dự trữ dầu thô đầy lên và làm giá dầu giảm. OPEC và các nước đồng minh dự kiến họp tại Vienna, Áo, vào ngày 25-26/6 nhằm bàn về chính sách đối với thị trường dầu.
Dữ liệu của OPEC cho thấy dự trữ dầu tại các nước phát triển trong tháng 3/2019 đã tăng 3,3 triệu thùng và cao hơn mức trung bình trong 5 năm khoảng 22,8 triệu thùng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng biến động nhẹ khi chứng khoán giảm điểm trước khi Fed công bố biên bản cuộc họp gần nhất. Kết thúc phiên giao dịch, vàng giao ngay vững ở mức 1.276,94 USD/ounce, sau khi có thời điểm chạm mức thấp nhất kể từ ngày 3/5 là 1.273,22 USD/ounce; vàng giao sau tăng nhẹ 0,1% và khép phiên ở mức 1.277,30 USD/ounce.
Ông Bob Haberkorn, chiến lược gia thị trường của công ty RJO Futures, dự đoán cùng với sự đi xuống trên thị trường chứng khoán, giá vàng sẽ tăng nhẹ trước khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) công bố biên bản cuộc họp gần nhất nhờ những đồn đoán rằng trước mắt sẽ không có đợt tăng lãi suất nào trong năm nay.
Giới đầu tư đang hướng sự chú ý đến biên bản mà Fed sẽ công bố vào ngày 22/5 sau cuộc họp chính sách ngày 1/5, nơi mà các nhà hoạch định chính sách của ngân hàng này quyết định giữ nguyên lãi suất và cho thấy ít có khả năng sẽ điều chỉnh lãi suất trong tương lai gần.
Giá vàng khá nhạy cảm với chính sách tiền tệ của Mỹ, do lãi suất tăng sẽ làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng, đồng thời làm đồng USD tăng giá khiến kim loại quý này trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua nắm giữ các đồng tiền khác.
“Đồng bạc xanh” đã hạn chế sức hấp dẫn của vàng khi chỉ số đồng USD đo sức mạnh của đồng tiền này so với rổ các đồng tiền chủ chốt khác đã “neo” gần mức cao nhất trong hai tuần. Tuần trước, chỉ số này đã ghi nhận mức tăng theo tuần lớn nhất kể từ đầu tháng Ba nhờ số liệu nhà ở mạnh mẽ của Mỹ và báo cáo cho thấy tỷ lệ thất nghiệp giảm.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,4% lên 14,45 USD/ounce, trong khi giá bạch kim ổn định ở mức 813,75 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá thép cây tại Thượng Hải tăng 0,2% lên 3.780 CNY/tấn trong khi giá thép cuộn cán nóng đã giảm 1% xuống 3.646 CNYtấn. Các nhà phân tích từ Huatai Futures dự kiến các nhà máy thép sẽ sớm bổ sung dự trữ quặng sắt và sẽ nâng lượng tồn kho tại cảng lên 120 triệu tấn trong tháng 6. Tuy nhiên, các nhà phân tích cũng cảnh báo về nhu cầu thép suy yếu trong mùa hè, điều này sẽ làm giảm lợi nhuận tại các nhà máy.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tiếp tục tăng do dự kiến nhu cầu tiêu thụ tăng trong tương lai gần tại các nhà máy thép nhờ lợi nhuận cao.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2019 tại Đại Liên đã tăng 2,9% đạt mức cao nhất mọi thời đại là 715,5 CNY(103,54 USD)/tấn. Giá hợp đồng này chốt phiên tăng 2,3% đạt 711,5 CNY.
Tồn kho quặng sắt nhập khẩu tại các cảng Trung Quốc đã giảm xuống còn 131,7 triệu tấn, mức thấp nhất kể từ giữa tháng 10/2017, theo SteelHome.
Đồng CNY suy yếu, do căng thẳng thương mại leo thang giữa Mỹ và Trung Quốc, cũng hỗ trợ giá quặng sắt.
Giá kẽm chạm mức thấp 4 tháng sau khi các nhà đầu tư lo ngại về nguồn cung tăng từ Trung Quốc và cuộc chiến thương mại Mỹ- Trung leo thang.Giá kẽm trên Sàn giao dịch kim loại Luân Đôn chốt phiên giảm 1,0% xuống còn 2.575 USD/tấn sau khi chạm mốc 2.553 USD, mức thấp nhất kể từ ngày 22/1. Giá kẽm đã giảm khoảng 9% từ tháng 5 tới nay.
Các nhà phân tích dự đoán sản lượng kẽm trong tháng 5/2019 của Trung Quốc sẽ tăng khoảng 5% đạt 560.000 tấn so với tháng 4.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica giao tháng 7/2019 tăng 0,9 UScent tương đương 1% lên 89,9 UScent/lb; robusta giao cùng kỳ hạn tăng 33 USD tương đương 2,5% lên 1.334 USD/tấn.
Giá đường thô tăng do hoạt động mua mạnh và đồng real Brazil đi lên. Đường thô giao tháng 7/2019 tăng 0,07 UScent tương đương 0,6% lên 11,62 UScent/lb, sau khi có lúc xuống mức 11,43 UScent, thấp nhất kể từ 1/10/2018. Đường trắng giao tháng 8/2019 tăng 1,7 USD tương đương 0,5% lên 323,20 USD/tấn.
Do giá đường toàn cầu gần chạm mức thấp trong nhiều năm, các nhà máy mía Brazil đã quay trở lại việc sản xuất ethanol được ưa chuộng từ mùa trước. Một số nhà máy Brazil như Alcoeste ở Fernandópolis, Sao Paulo, đã hủy hết các hợp đồng xuất khẩu đường trong năm 2019 do lợi nhuận thấp.
Giá ngô kỳ hạn tại Mỹ đã tăng phiên thứ 6 liên tiếp và chạm mức cao nhất gần một năm do mưa tại Trung Tây gây ngập lụt ảnh hưởng tới hoạt động trồng trọt và gây giảm năng suất sản xuất. Giá ngô tại sở giao dịch Chicago kỳ hạn tháng 7 chốt phiên tăng 5-3/4 cents đạt 3,89 USD/bushel. Giá hợp đồng này đã tăng hơn 10% trong 6 phiên qua và đạt mức cao nhất kể ngày 1/6/2018.
Giá lúa mì cũng đã nhảy vọt lên mức cao nhất 3 tháng do mưa lớn ngập lụt khiến hoạt động trồng lúa mì mùa xuân bị trì hoãn ở miền bắc nước Mỹ, có khả năng gây thiệt hại tới mùa màng tại miền nam, bao gồm cả bang trồng lúa mì mùa đông Kansas.
Giá lúa mì tại Chicago kỳ hạn tháng 7 tăng 17-1/2 cent lên mức cao nhất 3 tháng là 4,78-1/4 USD/bushel.
Giá cao su trên sàn giao dịch hàng hóa Tokyo giảm hơn 1% theo xu hướng giá yếu tại Thượng Hải do lo ngại cuộc chiến thương mại Mỹ- Trung gia tăng. Giá cao su giao tháng 10/2019 tại TOCOM chốt phiên giảm 2,3 JPY, tương đương 1,2%, còn 190,5 JPY(1,73 USD)/kg. Trong khi, giá cao su TSR kỳ hạn tháng 11/2019 chốt phiên giảm 1,3% xuống 162,7 JPY/ kg.
Tại Thượng Hải, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2019 đã giảm 150 CNY còn 12.045 CNY(1.742 USD)/tấn. Bắc Kinh đã kêu gọi Washington thể hiện "sự chân thành" nếu tổ chức các cuộc đàm phán thương mại có ý nghĩa, sau khi Hoa Kỳ đưa Công ty Huawei Technologies Co Ltd vào danh sách đen thương mại. Lo lắng cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung kéo dài sẽ làm chậm nền kinh tế toàn cầu và giảm nhu cầu hàng hóa, đang đè nặng lên tâm lý của các nhà đầu tư.
Tại Singapore, giá cao su giao tháng 6/2019 chốt phiên ở mức 149,5 US cent/kg, giảm 1%.
Giá hàng hóa thế giới
Mặt hàng
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
63,30
|
+0,20
|
+0,32%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
72,15
|
+0,18
|
+0,25%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
46.180,00
|
-380,00
|
-0,82%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,66
|
-0,01
|
-0,45%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
201,59
|
+0,60
|
+0,30%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
207,83
|
+0,47
|
+0,23%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
645,50
|
-6,00
|
-0,92%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
63.290,00
|
-120,00
|
-0,19%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.275,90
|
-1,40
|
-0,11%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.511,00
|
+5,00
|
+0,11%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
14,43
|
-0,02
|
-0,14%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
51,10
|
-0,20
|
-0,39%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
813,33
|
-1,33
|
-0,16%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.333,32
|
-0,08
|
-0,01%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
273,10
|
+0,50
|
+0,18%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
6.029,00
|
-27,00
|
-0,45%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.797,50
|
-39,50
|
-2,15%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.575,00
|
-25,00
|
-0,96%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
19.450,00
|
-50,00
|
-0,26%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
394,00
|
+5,00
|
+1,29%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
483,75
|
+5,50
|
+1,15%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
297,50
|
+1,00
|
+0,34%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,24
|
+0,02
|
+0,13%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
838,00
|
+6,25
|
+0,75%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
298,00
|
+0,70
|
+0,24%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
27,61
|
+0,11
|
+0,40%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
448,00
|
+4,80
|
+1,08%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.387,00
|
+34,00
|
+1,44%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
89,90
|
+0,90
|
+1,01%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
11,62
|
+0,07
|
+0,61%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
100,25
|
+3,50
|
+3,62%
|
Bông
|
US cent/lb
|
67,97
|
+0,06
|
+0,09%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
313,60
|
-10,40
|
-3,21%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
193,00
|
+2,50
|
+1,31%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,38
|
+0,02
|
+1,17%
|
Nguồn: Bloomberg, Reuters, CafeF