Trên thị trường năng lượng, giá dầu đảo chiều tăng khoảng 2% sau khi chứng khoán phố Wall hồi phục nhẹ, mặc dù vẫn còn quan ngại đà tăng trưởng kinh tế trên toàn cầu chậm lại có thể ảnh hưởng đến nhu cầu dầu mỏ.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu thô ngọt nhẹ trên sàn New York 1,13 USD, hay 2,5% và đóng phiên ở mức 46,54 USD/thùng; dầu Brent tăng 1,11 USD (hay 2,1%) lên 54,91 USD/thùng.
Thời gian gần đây, giá dầu giao kỳ hạn có xu hướng biến động cùng chiều với chứng khoán Mỹ, thị trường vừa ghi nhận năm giao dịch tồi tệ nhất 10 năm qua trong năm 2018.
Tuy nhiên, số liệu về hoạt động sản xuất và chế tạo từ Trung Quốc được công bố trước đó đã làm gia tăng những lo ngại về khả năng đà tăng trưởng kinh tế chậm lại trên toàn cầu, dù sản lượng gia tăng ở một số nước như Nga.
Hoạt động sản xuất tại các nhà máy của Trung Quốc trong tháng 12 đã suy giảm lần đầu tiên trong hai năm qua, qua đó cho thấy những thách thức mà Bắc Kinh đang phải đối mặt trong bối cảnh nước này đang tìm cách chấm dứt cuộc chiến thương mại với Mỹ. Số liệu về hoạt động sản xuất và chế tạo của Khu vực sử dụng đồng tiền chung euro (Euro zone) cũng gây thất vọng, khi hoạt động sản xuất kinh tế của khu vực này chỉ tăng lên vào cuối năm 2018, theo kết quả một cuộc khảo sát mới đây.
Những lo ngại về đà tăng trưởng giảm tốc và tình trạng dư thừa nguồn cung đã kéo giá dầu hồi tháng 10/2018 đi xuống từ các mức cao nhất trong nhiều năm qua. Năm 2018 là năm đầu tiên kể từ năm 2016 giá dầu thô suy giảm, trong đó dầu thô ngọt nhẹ Mỹ giảm 25% còn dầu Brent Biến Bắc giảm 21%
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm khỏi mức cao kỷ lục 6 tháng do chứng khoán Mỹ hồi phục và đồng USD mạnh lên làm giảm sức hấp dẫn của vàng.
Kết thúc phiên giao dịch, vàng giao ngay giảm 0,1% xuống 1.280,81 USD/ounce, vàng kỳ hạn giao sau tăng 2,8 USD (0,22%) lên 1.284,10 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD, thước đo giá trị đồng bạc xanh so với giỏ sáu tiền tệ chính trên thị trường, đã tăng 0,7% so với đồng euro và đồng bảng Anh.
Giá vàng giao ngay đã tăng 5% giá trị trong tháng 12/2018, mức tăng nhiều nhất kể từ tháng 1/2017. Một số nhà đầu tư dự kiến giá vàng sẽ vượt ngưỡng kháng cự 1.300 USD/ounce trong tương lai gần.
Các thị trường hiện đang chờ đợi đánh giá của Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell về triển vọng kinh tế Mỹ và những ngụ ý “bóng gió” về lộ trình lãi suất năm 2019, khi ông Powell tham dự cuộc thảo luận chung vào ngày 4/1/2018 tới với các cựu Chủ tịch Fed Janet Yellen và Ben Bernanke.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,3% lên 15,49 USD/ounce sau khi có lúc chạm mức cao nhất kể từ ngày 31/7 là 15,61 USD/ounce; giá bạch kim giao ngay tăng 0,2% lên 792,70 USD/ounce, còn giá palađi giao ngay giảm 0,5% xuống 1.257,50 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá thép kỳ hạn tại Thượng hải giảm sau khi các số liệu đáng thất vọng từ Trung Quốc khiến các nhà đầu tư lo lắng về tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Giá nguyên liệu luyện thép cũng giảm với giá quặng sắt giảm ba phiên liên tiếp và than cốc đạt mức thấp nhất trong hơn bốn tuần.
Hoạt động chế tạo của Trung Quốc đã giảm trong tháng 12/2018, lần giảm đầu tiên trong 19 tháng qua khi các đơn đặt hàng trong nước và xuất khẩu liên tục suy yếu. Hoạt động chế tạo tại khu vực Châu Á cũng yếu trong tháng cuối năm này do ảnh hưởng của cuộc chiến thương mại Mỹ- Trung và nhu cầu tiêu thụ yếu tại Trung Quốc.
Giá thép cây kỳ hạn tại Thượng Hải chốt phiên giảm 0,5% xuống còn 3.382 CNY (493,44 USD)/tấn. Giá thép cuộn cán nóng giảm 1,5% còn 3.294 CNY.
Giá thép cây kết thúc năm 2018 tăng 12% so với 2017 khi Trung Quốc áp dụng các biện pháp chống ô nhiễm buộc các nhà máy phải giảm sản xuất, hạn chế nguồn cung.
Giá than luyện cốc trên sàn Đại Liên giảm 2,5% xuống 1.145,5 CNY/tấn. Giá quặng sắt giảm 0,6% xuống 489,5 CNY và giá than cốc giảm 0,4% xuống còn 1.876,5 CNY/tấn.
Giá đồng chạm mức thấp 3,5 tháng do lo ngại về tăng trưởng kinh tế toàn cầu và nhu cầu tiêu thụ yếu tại Trung Quốc. Giá đồng kỳ hạn 3 tháng tại LME chốt phiên giảm 2,1% xuống còn 5.842 USD/ tấn, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 11/9 còn 5,831 USD. Giá đồng đã giảm 18% trong năm ngoái.
Chỉ số quản lý mua hàng sản xuất Caixin/Markit (PMI) của Trung Quốc trong tháng 12/2018 đã giảm xuống 49,7 so với mức 50,2 vào tháng 11/2018, đánh dấu sự sụt giảm đầu tiên kể từ 5/2017. Sản xuất là xương sống phát triển của nền kinh tế Trung Quốc. Trung Quốc chiếm một nửa lượng tiêu thụ đồng toàn cầu ước tính khoảng 24 triệu tấn trong năm nay.
Giá nhôm đóng cửa giảm 2,7% xuống còn 1.797 USD/tấn sau khi chạm mức thấp nhất một năm là 1.786 USD/tấn do lo ngại về tình trạng dư cung mặc dù các nhà sản xuất Trung Quốc có kế hoạch cắt giảm công suất.
Kẽm giảm 2,4% xuống còn 2.409 USD/tấn. Chì giảm 3,3% xuống còn 1.955 USD/tấn.
Liên quan tới mặt hàng kim loại, Trung Quốc thông báo sẽ hạn chế nhập khẩu thép phế liệu và nhôm từ 1/7/2019, Bộ Môi trường cho biết. Thép phế liệu và nhôm sẽ được chuyển từ danh sách nhập khẩu không hạn chế đối với các sản phẩm chất thải rắn có thể sử dụng làm nguyên liệu thô vào danh sách nhập khẩu hạn chế.
Các bộ phận liên quan đã nghiên cứu xây dựng các tiêu chuẩn cho đồng và nhôm tái chế. Nguyên liệu thô đồng và nhôm đáp ứng các tiêu chuẩn quốc gia liên quan sẽ không được coi là chất thải rắn và có thể được nhập khẩu như hàng hóa thông thường. Nhập khẩu chất thải rắn của Trung Quốc đã giảm hơn một nửa trong 11 tháng đầu năm nay so với cùng kỳ năm ngoái, khi nước này thắt chặt lệnh cấm nhập khẩu chất thải rắn. Các biện pháp hạn chế nhập khẩu chất thải là một phần của chiến dịch chiến chống ô nhiễm bắt đầu vào năm 2017 nhằm mục đích làm sạch nền kinh tế và khuyến khích các doanh nghiệp trong nước tái chế.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tại ICE chạm mức thấp nhất trong ba tháng do lo ngại kinh tế suy yếu toàn cầu. Đường thô kỳ hạn tháng 3/2019 giảm xuống 0,1%, tương đương 0,83%, xuống mức 11,93 Uscent/lb sau khi chạm mức thấp nhất ba tháng là 11,83 cent. Đường trắng giao tháng 3/2019 đã giảm 3,70 USD, tương đương 1,1%, xuống mức 328,80 USD/tấn, trước đó trượt xuống 327,80 USD, mức thấp nhất kể từ 2/10/2018.
Giá đậu tương Mỹ kỳ hạn giao sau đã tăng lên mức cao gần hai tuần do triển vọng sản lượng giảm ở Brazil và lạc quan về quan hệ thương mại giữa Mỹ và Trung.
Giá đậu tương kỳ hạn tháng 3/2019 tại Chicago tăng 12 Uscent, hay 1,3%, đạt 9,07 USD/ bushel.
Các nhà phân tích lạc quan rằng Trung Quốc có thể mua thêm đậu tương của Mỹ trong cuộc họp với phái đoàn đàm phán thương mại đến Bắc Kinh vào 7/1/2019.
Giá hàng hóa thế giới

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

46,54

+1,13

+2,5%

Dầu Brent

USD/thùng

54,49

+1,11

+2,1%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

35.910,00

-90,00

-0,25%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,96

+0,02

+0,65%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

135,12

+4,91

+3,77%

Dầu đốt

US cent/gallon

171,74

+3,80

+2,26%

Dầu khí

USD/tấn

513,75

+2,50

+0,49%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

52.290,00

-230,00

-0,44%

Vàng New York

USD/ounce

1.288,60

-2,30

Vàng TOCOM

JPY/g

4.526,00

-11,00

-0,24%

Bạc New York

USD/ounce

15,64

+0,10

+0,61%

Bạc TOCOM

JPY/g

54,40

+0,20

+0,37%

Bạch kim

USD/ounce

796,57

+0,62

+0,08%

Palađi

USD/ounce

1.266,81

+5,79

+0,46%

Đồng New York

US cent/lb

261,00

-2,10

-0,80%

Đồng LME

USD/tấn

5.965,00

-32,00

-0,53%

Nhôm LME

USD/tấn

1.846,00

+1,00

+0,05%

Kẽm LME

USD/tấn

2.467,00

+27,00

+1,11%

Thiếc LME

USD/tấn

19.475,00

-10,00

-0,05%

Ngô

US cent/bushel

376,00

+1,00

+0,27%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

508,25

+5,00

+0,99%

Lúa mạch

US cent/bushel

278,25

+3,00

+1,09%

Gạo thô

USD/cwt

10,45

+0,08

+0,77%

Đậu tương

US cent/bushel

906,25

+11,25

+1,26%

Khô đậu tương

USD/tấn

311,80

+1,90

+0,61%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,22

+0,37

+1,33%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

486,10

+1,90

+0,39%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.409,00

-7,00

-0,29%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

102,00

+0,15

+0,15%

Đường thô

US cent/lb

11,88

-0,15

-1,25%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

122,85

-2,95

-2,34%

Bông

US cent/lb

71,52

-0,68

-0,94%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

334,80

-2,20

-0,65%

Cao su TOCOM

JPY/kg

168,10

-2,10

-1,23%

Ethanol CME

USD/gallon

1,27

0,00

0,00%

Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters, CafeF

Nguồn: Vinanet