Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng hơn 1% khi chứng khoán toàn cầu đi lên. Kết thúc phiên, dầu Brent Biển Bắc giao kỳ hạn tiến 1,1% lên 61,97 USD/thùng, đầu phiên có lúc hợp đồng này xuống chỉ 60,21 USD/thùng – mức thấp nhất kể từ 29/1/2019; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 0,4% lên 53,48 USD/thùng.
Đầu phiên này, hoạt động giao dịch trên thị trường dầu có thời điểm chùng xuống do lo ngại tăng trưởng toàn cầu chậm lại giữa bối cảnh căng thẳng thương mại Mỹ -Trung kéo dài và Washington đe dọa áp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu từ Mexico.
Chứng khoán Mỹ đã tăng gần 2% sau khi Trung Quốc đề nghị Mỹ tiếp tục đối thoại để giải quyết bất đồng về thương mại và Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đưa ra đề xuất cắt giảm lãi suất.
Số liệu từ Viện Dầu khí Mỹ (API) cho thấy dự trữ dầu tại Mỹ tuần qua bất ngờ tăng 3,5 triệu thùng lên 478 triệu thùng. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) dự kiến công bố báo cáo hàng tuần về dầu trong ngày hôm nay (5/6/2019)Người đứng đầu công ty dầu mỏ quốc doanh Nga, công ty Rosneft, ông Igor Sechin cho rằng Nga khai thác dầu theo ý muốn của mình và ông sẽ đề nghị được Chính phủ bồi thường thiệt hại nếu Nga đồng ý với OPEC gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng. Sản lượng dầu trung bình ngày của nước này đã giảm xuống mức thấp nhất 3 năm sau sự cố dầu thô ô nhiễm làm tắc nghẽn đường ống xuất khẩu chính của Nga.
Giá dầu giao kỳ hạn hiện đang được giao dịch ở mức thấp hơn khoảng 20% so với các mức “đỉnh” trong năm 2019 đạt được hồi cuối tháng Tư. Tháng 5/2019 chứng kiến đà giảm theo tháng mạnh nhất của giá dầu kể từ tháng 11/2018.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giao dịch sát mức cao nhất trong ba tháng giữa bối cảnh Trung Quốc phát đi tín hiệu sẵn sàng thảo luận về bất đồng thương mại với Mỹ.
Đồn đoán gia tăng về việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ giảm lãi suất cũng đang hỗ trợ giá vàng.
Khép phiên này, giá vàng giao ngay hạ 0,1% xuống 1.324,01 USD/ounce sau khi có lúc trong phiên tăng chạm mức cao nhất kể từ phiên 27/2 là 1.328,98 USD/ounce; vàng giao sau cộng 0,1% lên 1.328,7 USD/ounce.
Afshin Nabavi, Phó Chủ tịch MKS SA, nhận định tín hiệu về việc tranh chấp thương mại Mỹ-Trung có thể được đàm phán thông qua đối thoại đang tạo sức ép đi xuống đối với giá vàng. Bộ Thương mại Trung Quốc ngày 4/6/2019 hối thúc Mỹ tiến hành đối thoại và đàm phán nhằm giải quyết các khác biệt về thương mại giữa hai nước.
Giá vàng phiên này còn chịu chi phối từ thị trường chứng khoán sau khi Chủ tịch Fed Jerome Powell cho biết Ngân hàng trung ương Mỹ sẽ có hành động "thích hợp" để đối phó với những rủi ro của chiến tranh thương mại, qua đó để ngỏ khả năng hạ lãi suất.
Giá vàng đã tăng hơn 4% kể từ khi giảm xuống mức thấp trong một tuần 1.274,44 USD/ounce trong tuần trước.
Phản ánh việc giới đầu tư ngày càng quan tâm tới vàng, lượng vàng do quỹ giao dịch vàng lớn nhất thế giới SPDR Gold Trust nắm giữ tăng 2,2% trong phiên vừa qua – mức tăng lớn nhất trong một ngày kể từ tháng 7/2016.
Về những kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,1% lên 14,79 USD/ounce sau khi có lúc tăng chạm mức cao trong ba tuần là 14,84 USD/ounce, giá bạch kim giảm 0,2% xuống 818,75 USD/ounce sau khi có lúc tăng chạm mức cao trong hơn hai tuần là 825,78 USD/ounce, giá palađi tiến 1,6% lên 1.344,15 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá vẫn quanh mức thấp nhất 5 tháng do căng thẳng thương mại Mỹ - Trung leo thang gây lo ngại nhu cầu kim loại công nghiệp sẽ sụt giảm, mặc dù USD yếu đi hỗ trợ đôi chút cho giá mặt hàng này.
Đồng hợp đồng giao sau 3 tháng trên sàn London kết thúc phiên nhích nhẹ 0,8% lên 5.878 USD/tấn nhưng vẫn gần sát mức thấp nhất kể từ 4/1/2019 là 5.801 USD/tấn.
Việc Trung Quốc thông báo sẽ xem xét tăng cường kiểm soát đất hiếm có thể làm gia tăng căng thẳng giữa nước này với Mỹ. Trung Quốc chiếm gần một nửa tiêu thụ đồng toàn cầu, ước tính 24 triệu tấn, trong khi Mỹ chiếm khoảng 8%.
Về những kim loại cơ bản khác, giá kẽm có lúc chạm mức thấp nhất kể từ tháng 1/2019 là 2.448 USD/tấn trước khi kết thúc ở 2.475,5 USD/tấn (tăng 0,3% so với phiên trước), nhôm tăng 0,5% lên 1.786 USD/tấn, chì tăng 2% lên 1.846 USD/tấn và thiếc giảm 0,3% xuống 19.090 USD/tấn trong khi nickel giảm 0,5% trên bảng giao dịch điện tử xuống 11.815 USD/tấn.
Lượng kẽm lưu kho trên sàn Thượng Hải tăng 5,4% lên 59.351 tấn, nhưng vẫn thấp hơn 54% so với mức cao kỷ lục năm 2019 là 124.038 tấn hồi tháng 3/2019. Lượng lưu kho trên sàn London là 100.375 tấn, giảm 22% từ đầu năm đến nay.
Giá thép cây trên sàn Thượng Hải đảo chiều đi lên sau đợt giảm kéo dài nhất trong vòng 7 tháng, song thép cuộn cán nóng giảm tiếp xuống mức 2 tháng giữa bối cảnh giới đầu tư thận trọng vì mùa nhu cầu thép cao điểm ở Trung Quốc đã kết thúc.
Kết thúc phiên giao dịch, thép cây kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn Thượng Hải tăng 0,3% lên 3.745 CNY (542,25 USD)/tấn. Tuy nhiên, kim loại này đã mất khoảng 5% giá trị kể từ khi đạt mức cao nhất 8 năm vào tháng trước. Thép cuộn cán nóng giảm 0,2% xuống 3.609 CNY/tấn vào cuối phiên, sau khi đầu phiên có lúc chỉ 3.557 CNY/tấn, thấp nhất kể từ 4/4/2019.
Sản lượng thép thô của Trung Quốc tháng 4/2019 tăng 12,7% so với tháng trước đó do nhu cầu vững.
Trên thị trường nông sản, đồng real mạnh lên đã hỗ trợ giá những mặt hàng như đường và cà phê tăng bởi Brazil là nước sản xuất và xuất khẩu lớn.
Giá cà phê arabica giao tháng 7/2019 lên mức cao nhất 4 tháng vào đầu phiên vừa qua, là 1,0615 USD/lb, trước khi kết thúc ở 1,0565 USD, tăng 1,9 UScent tương đương 1,8% so với cuối phiên trước. Robusta giao cùng kỳ hạn cũng tăng 4 USD tương đương 0,3% lên 1.484 USD/tấn.
Giá đường thô kỳ hạn giao tháng 7/2019 đã tăng 0,23 UScent tương đương 1,9% lên 12,42 UScent/lb vào cuối phiên vừa qua, trước đó đầu phiên có lúc giá đạt mức cao nhất kể từ 26/4/2019 là 12,45 UScent/lb. Đường trắng giao tháng 8/2019 cũng tăng 6 USD tương đương 1,8% lên 336,8 USD/tấn, sau khi có lúc đạt mức cao nhất 5 tuần là 338 USD/tấn.
Chính phủ Brazil đã mở đường cho các nhà sản xuất ethanol bán nhiên liệu trực tiếp cho các trạm khí gas mà không cần phải qua các đơn vị phân phối nhiên liệu, nhưng quy định này vẫn cần phải được sự thông qua dưới hình thức luật bổ sung.
Giá hàng hóa thế giới
Mặt hàng
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
53,48
|
+0,23
|
+0,4%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
61,97
|
+0,69
|
+1,13%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
38.690,00
|
+710,00
|
+1,87%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,42
|
0,00
|
-0,04%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
170,48
|
-1,94
|
-1,13%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
180,75
|
-1,40
|
-0,77%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
560,50
|
-1,25
|
-0,22%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
55.440,00
|
+190,00
|
+0,34%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.329,80
|
+1,10
|
+0,08%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.598,00
|
+6,00
|
+0,13%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
14,80
|
+0,03
|
+0,21%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
51,70
|
+0,50
|
+0,98%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
820,72
|
+0,25
|
+0,03%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.348,35
|
+0,25
|
+0,02%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
266,65
|
-0,25
|
-0,09%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
5.842,00
|
+12,00
|
+0,21%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.777,00
|
-17,50
|
-0,98%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.468,00
|
-56,00
|
-2,22%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
19.150,00
|
+435,00
|
+2,32%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
425,25
|
+1,00
|
+0,24%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
507,25
|
-12,50
|
-2,40%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
304,00
|
-1,25
|
-0,41%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
11,68
|
-0,01
|
-0,13%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
881,75
|
+2,75
|
+0,31%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
321,00
|
+0,50
|
+0,16%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
27,49
|
+0,15
|
+0,55%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
453,10
|
-2,20
|
-0,48%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.360,00
|
+9,00
|
+0,38%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
105,65
|
+1,90
|
+1,83%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,42
|
+0,23
|
+1,89%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
108,55
|
-2,35
|
-2,12%
|
Bông
|
US cent/lb
|
67,20
|
-0,77
|
-1,13%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
316,40
|
+14,60
|
+4,84%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
193,30
|
+1,10
|
+0,57%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,52
|
+0,01
|
+0,93%
|
Nguồn: VITIC/Bloomberg, Reuters