Tại Đồng bằng sông Cửu Long, nông dân bắt đầu chào bán lúa Hè Thu sớm nhưng số lượng không nhiều. Tại Cần Thơ và Kiên Giang, các thương lái giao dịch cầm chừng, giá lúa giữ vững. Tình hình tại An Giang cũng tương tự khi nhiều người dân vẫn neo giá cao, trong khi nhu cầu thu mua từ các kho và doanh nghiệp không lớn. Riêng tại Long An, một số thương lái hỏi mua lai rai, chủ yếu thu gom những đơn hàng đã cọc từ trước.
Theo ghi nhận tại An Giang, giá lúa phổ biến hôm nay dao động từ 5.700 đến 10.500 đồng/kg tùy giống. Các loại lúa thơm đặc sản như Japonica, ST24, ST25 tiếp tục giữ mức giá cao. Lúa thường như OM 380, IR 50404 có giá trong khoảng 5.700 đến 6.000 đồng/kg. Một số giống như OM 5451 và Nàng Hoa đang duy trì mức giá ổn định từ 6.400 đến 6.800 đồng/kg.
Thị trường nếp không ghi nhận biến động so với hôm qua. Giá nếp IR 4625 tươi dao động từ 7.700 đến 7.900 đồng/kg, trong khi loại khô dao động từ 7.900 đến 8.000 đồng/kg. Nếp ba tháng loại khô hiện giữ giá cao nhất, lên đến 9.700 đồng/kg.
Về giá gạo nguyên liệu, các mức giá vẫn tương đối ổn định tại An Giang. Gạo nguyên liệu OM 18 hiện dao động từ 10.200 đến 10.400 đồng/kg; OM 380 từ 7.700 đến 7.850 đồng/kg; OM 5451 từ 9.600 đến 9.750 đồng/kg. Gạo IR 504 nguyên liệu giữ mức 8.050 đến 8.200 đồng/kg. Gạo thành phẩm cũng ghi nhận xu hướng giữ giá, với gạo OM 380 ở mức 8.800 đến 9.000 đồng/kg và IR 504 ở mức 9.500 đến 9.700 đồng/kg. Tuy nhiên, do rơi vào kỳ nghỉ lễ, lượng giao dịch nhìn chung vẫn chậm, nhiều kho mua hàng cầm chừng, nguồn hàng về hạn chế.
Tại các chợ lẻ, mặt bằng giá gạo gần như không thay đổi so với hôm qua. Mặt hàng duy nhất ghi nhận điều chỉnh là gạo Sóc thường, giảm nhẹ 500 đồng/kg. Gạo Nàng Nhen vẫn giữ mức cao nhất với 28.000 đồng/kg. Các loại gạo phổ thông như gạo trắng, gạo thường và gạo thơm Thái hạt dài dao động trong khoảng 13.000 đến 22.000 đồng/kg. Gạo Nhật và gạo Hương Lài vẫn duy trì mức giá cao, khoảng 22.000 đồng/kg.
Giá các mặt hàng phụ phẩm hôm nay tương đối ổn định. Tấm thơm được bán với giá từ 7.450 đến 7.600 đồng/kg, cám dao động từ 8.000 đến 9.000 đồng/kg, còn trấu giữ mức thấp hơn, từ 1.000 đến 1.150 đồng/kg.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo Việt Nam không có thay đổi đáng kể. Gạo tiêu chuẩn 5% tấm hiện được chào bán ở mức 397 USD/tấn, gạo 25% tấm ở mức 368 USD/tấn và gạo 100% tấm là 323 USD/tấn. Theo số liệu từ Cục Hải quan, tính từ đầu năm đến ngày 15/4, Việt Nam đã xuất khẩu 2,85 triệu tấn gạo, tăng 6,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, giá gạo xuất khẩu trung bình giảm 20,1%, khiến kim ngạch chỉ đạt 1,47 tỷ USD, giảm 14,9% so với cùng kỳ. Đáng chú ý, xuất khẩu sang thị trường Philippines – vốn là thị trường lớn nhất của Việt Nam – đã giảm tới 24,6% về giá trị. Trong khi đó, xuất khẩu sang Bờ Biển Ngà, Trung Quốc và Ghana ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng từ hơn 100% đến 140% so với cùng kỳ năm trước.

Nguồn: Vinanet/VITIC