- Dầu Brent và dầu Mỹ diễn biến trái chiều
- Đồng, lúa mì và đậu tương tăng giá, cà phê giảm
(VINANET) – Hàng hóa thế giới đồng loạt tăng trong phiên giao dịch 1-11 (kết thúc vào rạng sáng 2-11 giờ VN), bởi thị trường hồi phục mạnh sau siêu bão Sandy tàn phá nặng nề kinh tế ở Bờ Đông nước Mỹ, nhưng giá dầu dao động không đồng nhất bởi những phản ứng trước các số liệu kinh tế.
Dầu thô Mỹ tăng 1% lên 87,09 USD/thùng bởi số liệu cho thấy lượng dầu rút ra từ kho dự trữ nhiều hơn dự kiến và các dự liệu kinh tế tích cực ở Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới và cũng tiêu thụ nhiều năng lượng nhất.
Các thị trường chứng khoán Mỹ, thường điều khiển giá dầu, cũng tăng trước những số liệu cho thấy các công ty trong nước đã bổ sung việc làm trong tháng 10 và tăng trưởng nhanh nhất 8 tháng, và niềm tin tiêu dùng đạt mức cao nhất trong vòng hơn 4 năm.
Giá xăng Mỹ cũng tăng.
Dầu Brent tại London – định hướng giá dầu toàn cầu hơn là dầu Mỹ, kết thúc giảm hơn nửa phần trăm xuống mức 108,17 USD/thùng do dự báo sản lượng ở Biển Bắc sẽ trở lại bình thường sau thời gian bảo hành sớm hơn thông lệ.
Dầu Brent giảm cũng bởi lo ngại về kinh tế khu vực đồng euro, và lo ngại rằng sự tàn phá của siêu bão Sandy có thể làm chậm lại đà hồi phục kinh tế Mỹ.
Những sự bất chắc chính trị có thể giữ giá dầu giao dịch ngoài xu hướng chung trong tuần tới.
Cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ đang tới gần, trong khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc – nước nhập khẩu nguyên liệu lớn nhất thế giới - sẽ thảo luận về việc chuyển giao quyền lãnh đạo và vụ bê bối của ông Bạc Hy Lai trong cuộc họp cuối cùng trước đại hội đảng toàn quốc lần thứ 18, diễn ra vào ngày 8/11 tới.
Chỉ số Thomson Reuters-Jefferies CRB, thước đo dao động hàng hóa toàn cầu, tăng 0,4% sau khi 10 trong số 19 nguyên liệu tăng giá.
Đồng, đậu tương và lúa mì tăng mạnh
Giá đồng tăng, được hậu thuẫn bởi số liệu việc là và niềm tin tiêu dùng Mỹ cùng những thống kê khác cho thấy nước tiêu dùng kim loại lớn là Trung Quốc và nhiều nước châu Á khác đã lấy lại hơi để hồi phục mạnh hơn.
Đồng kỳ hạn 3 tháng tại London tăng 0,9% đạt 7.826 USD/tấn, ngày tăng giá thứ 3.
Thị trường đã xuống mức thấp nhất 2 tháng hôm thứ 2 (26-11) và mất 9% so với mứ cao điểm 8.422 USD/tấn đạt được hôm 19-9 - khi hy vọng vào các biện pháp kích thích của các ngân hàng trung ương thúc đẩy hoạt động mua vào.
Tính từ đầu năm tới nay, đồng tăng giá 4,6%.
Đậu tương tăng giá phiên thứ 3, được thúc đẩy bởi sự tăng giá trên các thị trường đậu tương Trung Quốc.
Lúa mì tăng giá phiên thứ 2.
Cà phê arabica lội ngược dòng, giảm xuống mức thấp nhất trong vòng hơn 4 tháng, do áp lực từ việc USD tăng và hoạt động bán ra nhiều.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/-(%)
|
+/-(so với đầu năm)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
86,99
|
0,75
|
0,9%
|
-12,0%
|
Dầu thô Brent
|
USD/thùng
|
108,20
|
-0,50
|
-0,5%
|
0,8%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/gallon
|
3,699
|
0,007
|
0,2%
|
23,8%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
1715,50
|
-3,60
|
-0,2%
|
9,5%
|
Vàng kỳ hạn
|
USD/ounce
|
1713,94
|
-6,11
|
-0,4%
|
9,6%
|
Đồng Mỹ
|
US cent/lb
|
355,20
|
3,45
|
1,0%
|
3,4%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
7826,00
|
66,50
|
0,9%
|
3,0%
|
Dollar
|
|
80,050
|
0,131
|
0,2%
|
-0,2%
|
Ngô Mỹ
|
US cent/bushel
|
751,00
|
-4,75
|
-0,6%
|
16,2%
|
Đậu tương Mỹ
|
US cent/bushel
|
1558,50
|
11,50
|
0,7%
|
30,0%
|
Lúa mì Mỹ
|
US cent/bushel
|
868,50
|
4,00
|
0,5%
|
33,1%
|
Cà phê arabica
|
US cent/lb
|
153,45
|
-1,20
|
-0,8%
|
-32,8%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2420,00
|
32,00
|
1,3%
|
14,7%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,38
|
-0,08
|
-0,4%
|
-16,6%
|
Bạc Mỹ
|
USD/ounce
|
32,248
|
-0,068
|
-0,2%
|
15,5%
|
Bạch kim Mỹ
|
USD/ounce
|
1572,70
|
-4,80
|
-0,3%
|
11,9%
|
Palladium Mỹ
|
USD/ounce
|
612,45
|
2,65
|
0,4%
|
-6,7%
|
(T.H – Reuters)