Dầu thô Brent tăng tuần thứ 7 liên tiếp; Lúa mì tăng do xuất khẩu mạnh từ Mỹ; cà phê arabica tăng do lo sợ về dịch bệnh. Tuy nhiên tính chung trong tuần CRB vẫn giảm 0,6%.
(VINANET) – Phiên giao dịch cuối tuần qua (25-1, kết thúc vào rạng sáng 26-1 giờ VN), giá dầu vững sau số liệu thống kê khả quan phát đi từ Đức khích lệ thêm hy vọng kinh tế thế giới hồi phục, và lúa mì và cà phê cũng tăng.
Một số yếu tố đang hậu thuẫn thị trường hàng hóa:
-
Hạ viện Mỹ thông qua dự thảo nâng trần nợ công Mỹ đến ngày 19/5, ngăn cho Mỹ khỏi nguy cơ vỡ nợ vào cuối tháng 2 tới.
-
Nền kinh tế Mỹ và châu Âu có thêm dấu hiệu phục hồi. Chỉ số niềm tin kinh doanh tại Đức tăng từ 102,4 điểm trong tháng 12 lên 104,2 điểm trong tháng 1, thêm dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế lớn nhất eurozone.
-
Báo cáo của Bộ lao động Mỹ cho thấy, số đơn xin trợ cấp thất nghiệp tại Mỹ giảm xuống thấp nhất 5 năm tuần trước.
Cuối tuần, giá dầu thô Brent tại London quanh mức 113 USD/thùng sau khi viện Ifo của Đức – nền kinh tế số 1 châu Âu - công bố chỉ số bầu không khí kinh doanh của Đức cao nhất trong vòng hơn nửa năm.
Ifo công bố thông tin một ngày sau những số liệu cho thấy tăng trưởng trong trong lĩnh vực sản xuất tại Hoa Kỳ và Trung Quốc mạnh nhất trong vòng khoảng 2 năm.
Chỉ số Thomson Reuters-Jefferies CRB Index đo lường 19 nguyên liệu giảm 0,4% trong phiên cuối tuần, và giảm 0,6% trong cả tuần.
Đồng
Giá đồng tại London và New York phiên cuối tuần giảm sau thông báo sản lượng tại mỏ Chilean Collahuasi của hãng Anglo American tăng. Đây là mỏ sản xuất đồng lớn thứ 3 thế giới.
Trên sàn Comex, giá đồng giao tháng 3 chốt tuần tại 3,65 USD/pound. Còn trên sàn London, giá đồng chốt tuần tại 8.036 USD/tấn. Giá đồng ghi nhận tuần giảm giá nhẹ 0,5%.
Các nhà đầu tư trong lĩnh vực kim loại cơ bản phớt lờ thông tin đồng euro tăng giá lên mức cao nhất 11 tháng so với USD, lẽ ra có lợi cho những hàng hóa như đồng vì mua vào sẽ rẻ hơn đối với những người nắm giữ đồng euro.
Vàng
Giá vàng cũng giảm phiên cuối tuần, xuống mức thấp nhất 2 tuần. Kim loại quý giảm giá sau khi Ngân hàng Trung ương châu Âu cho biết các ngân hàng eurozone sẽ mua lại khoảng 137 tỷ euro (183,2 tỷ USD) các khoản cho vay lãi suất thấp, làm tăng niềm tin vào các ngân hàng khu vực.
Theo quan sát của NDHMoney, khối lượng giao dịch vàng miếng trên thị trường giảm mạnh so với thời điểm tuần đầu tiên sau siết kinh doanh vàng miếng và cũng giảm so với tuần trước. Nhu cầu bán ra và mua vào của người dân cùng lúc chững lại.
Trên sàn Comex, giá vàng giao tháng 2 chốt tuần này tại 1.656,6 USD/oz. Trong tuần này, giá vàng kỳ hạn giảm 1,8%, tuần giảm mạnh nhất kể từ ngày 23/12.
Giá vàng rơi xuống dưới đường trung bình động 200 ngày, ngưỡng hỗ trợ mà giá vàng duy trì trong hầu hết 5 tháng qua.
Theo khảo sát giá vàng tuần này của Kitco, trong số 25 chuyên gia trả lời khảo sát, có 8 người dự báo giá tăng, 12 người dự báo giá giảm và 5 người có ý kiến trung lập.
Dầu
Trên sàn Nymex, giá dầu thô giao tháng 3 chốt tuần tại 95,88 USD/thùng. Trong tuần này, giá dầu thô tăng 0,3%, tuần tăng thứ 7 liên tiếp và là đợt tăng dài nhất kể từ tháng 4/2009.
Giá dầu Brent giao tháng 3 chốt tuần này tại 113,28 USD/thùng. Trong tuần này, giá dầu Brent tăng 1,2%.
Ngũ cốc, hạt có dầu
Trên sàn Chicago, giá lúa mỳ giao tháng 3 chốt tuần tại 7,765 USD/bushel. Trong tuần này, giá lúa mỳ giảm 1,9%.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) thông báo bán lúa mì của Mỹ trong tuần mới nhất đạt 647.500 tấn.
Giá đậu tương giao tháng 3 chốt tuần tại 14,41 USD/bushel. Trong tuần này, giá đậu tương tăng 0,8%, tuần tăng thứ 3 liên tiếp.
Giá ngô giao tháng 3 chốt tuần tại 7,2075 USD/bushel. Trong tuần này, giá ngô giảm 0,9% do dự báo mưa tại Nam Mỹ sẽ cải thiện mùa màng.
Cà phê, cacao
Giá cacao kỳ hạn tại Mỹ giảm xuống mức thấp nhất 6 tháng do nguồn cung tăng từ nước sản xuất lớn nhất là Tây Phi hoạt động bán ra mạnh mẽ.
Cà phê kỳ hạn tháng 3 – giao dịch nhiều nhất – tại New York giá giảm 22 USD hay 1% xuống 2.173 USD/tấn vào cuối tuần. Đây là mức thấp nhất kể từ ngày 17-7-2012.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/-(%)
|
So với đầu năm (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
95,95
|
0,00
|
0,0%
|
4,5%
|
Dầu thô Brent
|
USD/thùng
|
113,39
|
0,11
|
0,1%
|
2,1%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/gallon
|
3,444
|
-0,002
|
-0,1%
|
2,8%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
1656,60
|
-13,30
|
-0,8%
|
-1,1%
|
Vàng kỳ hạn
|
USD/ounce
|
1658,56
|
-8,80
|
-0,5%
|
-0,9%
|
Đồng Mỹ
|
US cent/lb
|
365,20
|
-2,45
|
-0,7%
|
0,0%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8030,00
|
-65,50
|
-0,8%
|
1,2%
|
Dollar
|
|
79,758
|
-0,191
|
-0,2%
|
3,9%
|
Ngô Mỹ
|
US cent/bushel
|
720,75
|
-3,50
|
-0,5%
|
3,2%
|
Đậu tương Mỹ
|
US cent/bushel
|
1441,00
|
5,75
|
0,4%
|
1,6%
|
Lúa mì Mỹ
|
US cent/bushel
|
776,50
|
8,00
|
1,0%
|
-0,2%
|
Cà phê arabica
|
US cent/lb
|
148,30
|
1,75
|
1,2%
|
3,1%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2173,00
|
-22,00
|
-1,0%
|
-2,8%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
18,38
|
-0,11
|
-0,6%
|
-5,8%
|
Bạc Mỹ
|
USD/ounce
|
31,206
|
-0,516
|
-1,6%
|
3,2%
|
Bạch kim Mỹ
|
USD/ounce
|
1693,90
|
11,10
|
0,7%
|
10,1%
|
Palladium Mỹ
|
USD/ounce
|
741,00
|
14,30
|
2,0%
|
5,4%
|
(T.H – Reuters)