Kim ngạch nhập khẩu sữa và sản phẩm tháng cuối năm 2018 tăng 6,8% so với tháng 11/2018 – đây là tháng tăng thứ ba liên tiếp, nâng trị giá nhập khẩu mặt hàng này cả năm 2018 lên 962,99 triệu USD, tăng 2,5% so với năm 2017.
New Zealand tiếp tục dẫn đầu là thị trường chính nhập khẩu sữa và sản phẩm từ sữa của Việt Nam, chiếm 29,49% tỷ trọng đạt 284 triệu USD, tăng 21,99% so với năm 2017. Riêng tháng 12/2018 kim ngạch nhập từ thị trường này đã tăng 73,31% so với tháng 11/2018 đạt 23,77 triệu USD.
Thị trường được nhập nhiều trong năm 2018 tiếp theo là các nước Đông Nam Á và EU, hai thị trường này chiếm 43,47% tỷ trọng, tuy nhiên tốc độ nhập khẩu đều sụt giảm so với năm trước, giảm lần lượt 0,13% và 11,61%.
Nhìn chung năm 2018 Việt Nam nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa từ các thị trường đạt kim ngạch trên 100 triệu USD bao gồm: New Zealand, Singapore và Mỹ, trong đó Mỹ tăng nhiều nhất 79,85% đạt 121,87 triệu USD, mặc dù tháng 12/2018 kim ngạch nhập từ Mỹ giảm 22,61% so với tháng 11/2018 chỉ có 9,54 triệu USD.
Nhập khẩu sữa và sản phẩm từ các thị trường có kim ngạch tăng trưởng chỉ chiếm 41,17%, ngoài tăng mạnh nhập khẩu từ thị trường Mỹ thì Việt Nam cũng nhập nhiều từ các thị trường khác như Bỉ, Nhật Bản với mức tăng lần lượt 43,93% đạt 7,81 triệu USD và tăng 37,54% đạt 33,15 triệu USD. Ở chiều ngược lại, thị trường với kim ngạch sụt giảm chiếm 58,82% và giảm mạnh nhập từ thị trường Ba Lan giảm 37,58% và Ireland giảm 27,68%.
Đáng chú ý, trong tháng 12/2018 Việt Nam tăng mạnh nhập khẩu sữa từ thị trường Philippines, tuy chỉ đạt 219,1 nghìn USD, nhưng so với tháng 11/2018 tăng 93,43%. Và thị trường Bỉ, mặc dù sụt giảm 35,99% so với tháng trước chỉ đạt 1,8 triệu USD, nhưng nếu so với tháng 12/2017 thì tăng đột biến gấp 18,86 lần (tức tăng 1786,98%).
Thị trường nhập khẩu sữa và sản phẩm năm 2018
Thị trường
|
T12/2018 (USD)
|
+/- so với T11/2018 (%)*
|
Năm 2018 (USD)
|
+/- so với năm 2017 (%)*
|
New Zealand
|
23.777.080
|
73,31
|
284.036.086
|
21,99
|
Singapore
|
8.423.020
|
-20,87
|
134.053.037
|
9,48
|
Mỹ
|
9.544.810
|
-22,61
|
121.872.565
|
79,85
|
Đức
|
4.519.789
|
-23,29
|
58.293.699
|
-3,81
|
Thái Lan
|
3.860.258
|
-9,19
|
53.303.243
|
-6,03
|
Hà Lan
|
3.082.253
|
-2,93
|
37.941.081
|
-15,61
|
Pháp
|
2.996.815
|
-30,84
|
37.010.688
|
-5,82
|
Malaysia
|
2.616.063
|
-4,17
|
34.919.537
|
-18,5
|
Nhật Bản
|
1.956.141
|
-46,72
|
33.157.687
|
37,54
|
Australia
|
5.402.603
|
82,36
|
32.662.790
|
-2,34
|
Ba Lan
|
956.674
|
61,49
|
20.117.697
|
-37,58
|
Ireland
|
1.771.014
|
-9,7
|
16.696.753
|
-27,68
|
Tây Ban Nha
|
907.176
|
-26,16
|
12.886.322
|
29,33
|
Hàn Quốc
|
712.591
|
46,68
|
9.815.185
|
1
|
Bỉ
|
1.800.730
|
-35,99
|
7.811.945
|
43,93
|
Philippines
|
219.145
|
93,43
|
3.996.293
|
-12,13
|
Đan Mạch
|
191.826
|
46,51
|
1.627.114
|
-22,4
|
(*tính toán số liệu từ TCHQ)
Về tình hình sản xuất trong nước. Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Thống kê cho thấy tình hình sản xuất sữa trong tháng 12/2018 đều suy giảm ở cả phân khúc sữa tươi và sữa bột. Theo đó sữa bột giảm 0,5 nghìn tấn so với tháng 11/2018 (tức giảm 4,6%), tính chung cả năm 2018 sản lượng sữa bột đạt 138 nghìn tấn, tăng 11,8% so với năm 2017; sữa tươi giảm 5,7 triệu lít (tức giảm 3,13%), tính chung năm 2018 đạt 1519 triệu lít, tăng 2,1% so với năm trước.
Tình hình sản xuất sữa và sản phẩm năm 2018