Số liệu Tổng cục Hải quan cho thấy, trong số các mặt hàng thủy sản chủ lực trong 8 tháng qua: xuất khẩu tôm đạt trên 1,4 tỷ USD (giảm 1,8% so với cùng kỳ); cá tra gần 1,2 tỷ USD (giảm 0,5%). Trong khi đó, cá ngừ gần 396 triệu USD với mức tăng ấn tượng hơn 51%; nhuyễn thể gần 383 triệu USD (tăng 5,4%)...
Xét về nhóm sản phẩm, 2 mặt hàng có giá trị xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn nhất gần 65% kim ngạch là Tôm và cá tra, ba sa có kim ngạch xuất khẩu trong tháng 8 giảm khá mạnh, tính chung 8 tháng giảm lần lượt 1,8% và giảm 0,5% so với cùng kỳ năm trước. Năm nay là năm xuất khẩu khó khăn của hai mặt hàng chủ lực tôm và cá tra. 3 tháng liên tiếp từ tháng 6 - 8/2012, xuất khẩu tôm từ từ đi xuống.
Trong khi đó, các sản phẩm như cá ngừ, nhuyễn thể, cua, ghẹ và giáp xác khác, các loại cá khác lại có kim ngạch xuất khẩu tăng tính chung 8 tháng đầu năm 2012. Cá ngừ tiếp tục dẫn đầu mức tăng trưởng với mức tăng 51,2% so với 8 tháng đầu năm 2011.
Được biết, thị trường nhập khẩu cá ngừ Việt Nam 8 tháng đầu năm dẫn đầu là Mỹ với 44,76% giá trị; tiếp theo là EU, Nhật bản, Asean và Hongkong....
Thị trường nhập khẩu cá tra lớn nhất của Việt Nam vẫn là EU với gần 292 triệu USD, chiếm tới trên 25% tổng kim ngạch xuất khẩu cá tra; trong khi với mặt hàng tôm thì Nhật Bản là thị trường đứng đầu về kim ngạch nhập khẩu.
Tính đến cuối tháng 8, các thị trường đơn lẻ có kim ngạch nhập khẩu cá tra Việt Nam lớn nhất trong khối này có: Tây Ban Nha (64 triệu USD), Hà Lan (49 triệu USD), Đức (36 triệu USD), Italia và Anh (25 triệu USD), Bỉ (20 triệu USD)...
Sau EU, xuất khẩu cá tra sang các thị trường truyền thống như Mỹ, ASEAN, Trung Quốc và Hong Kong tiếp tục duy trì với kim ngạch khá lớn. Trong đó, xuất khẩu sang Mỹ đạt 254 triệu USD, ASEAN đạt 73 triệu USD, Trung Quốc và Hong Kong đạt 47 triệu USD.
Doanh thu xuất khẩu tôm giảm trong nhiều tháng liên tiếp do phải cạnh tranh gay gắt với tôm nước ngoài và chi phí tăng cao. Bên cạnh đó, những vấn đề liên quan đến chất kháng sinh ethoxyquin với Nhật Bản cũng phần nào làm hạn chế xuất khẩu tôm sang thị trường này.
Tuy nhiên, tính đến hết tháng 8, Nhật Bản vẫn là thị trường nhập khẩu tôm lớn nhất của Việt Nam với gần 383 triệu USD (chiếm tới 27% tổng kim ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam). Kế tiếp là Mỹ với trên 292 triệu USD, EU trên 200 triệu USD, Trung Quốc và Hong Kong với gần 154 triệu USD.
Cơ cấu các mặt hàng thủy sản xuất khẩu 8 tháng đầu năm
|
|
T8/2012 so với T8/2011 (%)
|
|
8T/2012 so với cùng kỳ 2011 (%)
|
Tôm các loại (mã HS 03 và 16)
|
|
|
|
|
trong đó: - Tôm chân trắng
|
|
|
|
|
- Tôm sú
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
trong đó: - Cá ngừ mã HS 16
|
|
|
|
|
- Cá ngừ mã HS 03
|
|
|
|
|
Cá các loại khác (mã HS 0301 đến 0305 và 1604, trừ cá ngừ, cá tra)
|
|
|
|
|
Nhuyễn thể (mã HS 0307 và 16)
|
|
|
|
|
trong đó: - Mực và bạch tuộc
|
|
|
|
|
- Nhuyễn thể hai mảnh vỏ
|
|
|
|
|
Cua, ghẹ và Giáp xác khác (mã HS 03 và 16)
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|