Trên thị trường năng lượng, giá 2 loại dầu thô biến động trái chiều sau khi Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) công bố báo cáo hàng tháng, theo đó trong tháng 5/2018 sản lượng của tổ chức này đã tăng 35.000 thùng/ngày lên 31,87 triệu thùng/ngày. OPEC cũng nâng dự báo về tốc độ tăng trưởng nguồn cung dầu từ các nước ngoài OPEC thêm khoảng 130.000 thùng trong năm nay, song vẫn giữ nguyên dự báo nhu cầu dầu mỏ toàn cầu ở mức 98,85 triệu thùng/ngày.
Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 7/2018 tăng 26 US cent lên 66,36 USD/thùng; dầu Brent giao tháng 8/2018 trái lại giảm 58 US cent xuống 75,88 USD/thùng.
Số liệu từ Viện Dầu mỏ Mỹ cũng cho thấy rằng dự trữ dầu thô của nước này tăng đột biến lên 833.000 thùng so với dự kiến của các nhà phân tích là giảm 2,7 triệu thùng. Đồng USD tăng mạnh trong khi đồng euro suy yếu gây áp lực đối với giá dầu Brent.
OPEC và các nước sản xuất dầu mỏ chủ chốt, dẫn đầu là Nga đã cùng tham gia thỏa thuận cắt giảm sản lượng 1,8 triệu thùng/ngày kể từ tháng 1/2017 và có hiệu lực tới cuối năm 2018. Tuy nhiên, giữa bối cảnh giá dầu thế giới gần đây đã chạm ngưỡng 80 USD/thùng, mức cao nhất kể từ năm 2014, một số nhà sản xuất dầu mỏ chủ chốt đang thảo luận về khả năng nới lỏng thỏa thuận trên và điều này sẽ được đề cập tại cuộc họp ngày 22-23/6 tới.
Các biện pháp trừng phạt của Mỹ có nguy cơ làm giảm xuất khẩu từ Iran, trong bối cảnh sản lượng dầu Venezuela có thể sẽ giảm hơn nữa và trong khi Saudi Arabia và Nga cho biết sẽ sẵn sàng bù đắp cho bất kỳ sự thiếu hụt nguồn cung nào. Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ, sản lượng dầu thô Mỹ tăng ít hơn so với dự kiến trước đó lên 11,76 triệu thùng/ngày trong năm tới. Tuy nhiên OPEC cho biết, triển vọng thị trường dầu trong nửa cuối năm 2018 sẽ không chắc chắn, ngay cả khi con số của tổ chức này cho thấy dư cung toàn cầu giảm.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giao ngay có thời điểm rơi xuống 1.292,60 USD/ounce, mức thấp nhất trong một tuần, trong khi đó vàng giao tháng Tám giảm 3,8 USD (0,3%) xuống 1.299,40 USD/ounce. Các nhà đầu tư chờ đợi thêm thông tin về tiến trình nâng lãi suất tại Mỹ. Các nhà giao dịch cho biết giá vàng đã không phản ứng mạnh trước diễn biến mới xung quanh hội nghị thượng đỉnh lịch sử giữa hai nhà lãnh đạo Mỹ và Triều Tiên tại Singapore.
Các chuyên gia nhận định tuyên bố của Fed sau cuộc họp có thể đẩy giá vàng ra khỏi biên độ hẹp 1.290-1.305 USD/ounce mà kim loại quý này “mắc kẹt” kể từ giữa tháng Năm. Dù thị trường dự báo về đợt tăng lãi suất tiếp theo của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tại cuộc họp kéo dài hai ngày từ 12-13/6, các nhà đầu tư vẫn đang chờ đợi thêm thông tin về chính sách tiền tệ trong thời gian tới của cơ quan này.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,2% xuống còn 16,86 USD/oucne, sau khi đạt mức cao nhất 7 tuần trong ngày thứ hai ở mức 16,95 USD/ounce. Giá bạch kim giảm 1,2% xuống còn 893,5 USD/ounce và giá palađi giảm 0,4% xuống còn 1.018 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm phiên thứ 3 liên tiếp do các nhà đầu tư bán ra chốt lời và việc giải quyết lao động tại Chile đã gia tăng triển vọng đối với 1 thỏa thuận tại mỏ khai thác hàng đầu Escondida.
Giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên sàn London giảm 0,5% xuống còn 7.222 USD/tấn, sau 2 phiên trước đó đạt 7.348 USD/tấn, mức cao nhất trong 4 năm rưỡi. Giá nhôm trên sàn London hợp đồng tham chiếu tăng 0,04% lên 2.302 USD/tấn. Giá kẽm trên sàn London giảm 0,1% xuống còn 3.199 USD/tấn, giá chì không thay đổi ở mức 2.475 USD/tấn và dự kiến sẽ tăng lên 2.610-2.639 USD/tấn, nhà phân tích cao cấp Axel Rudolph tại Commerzbank cho biết. Giá nickel giảm 0,5% xuống còn 15.210 USD/tấn, và giá thiếc giảm 0,2% xuống còn 21.125 USD/tấn.
Giá thép cây tại Trung Quốc hồi phục từ mức giảm 2 ngày trước đó, được hậu thuẫn bởi các doanh nghiệp thép lớn tăng giá và lo ngại dư cung tại thị trường này giảm bớt, trong bối cảnh công suất sản xuất tại các nhà máy thép suy giảm.
Giá thép cây, hợp đồng tham chiếu tại Thượng Hải tăng 1,9% lên 3.856 NDT (602,42 USD)/tấn, mức cao nhất kể từ đầu tháng 12/2017. Các công ty sản xuất thép hàng đầu Trung Quốc bao gồm Baoshan Iron & Steel, Wuhan Iron và Steel Co cho biết, họ sẽ tăng giá một số sản phẩm như thép cuộn cán nóng, dầm thép và thép dây giao tháng 7.
Jiangsu Shagang Group, công ty thép tư nhân lớn nhất Trung Quốc xét theo năng lực sản xuất cho biết, sẽ nâng giá thép cây giao ngay và sản phẩm thép dây giao giai đoạn 11-20/6. Việc kiểm tra môi trường gần đây cũng giữ giá thép duy trì ở mức cao, với công suất sử dụng tại các lò luyện thép cao Trung Quốc giảm tuần thứ 3 liên tiếp, giảm xuống còn 71,41% trong tuần kết thúc ngày 8/6, điều này đã giảm bớt áp lực dư cung thị trường.
Giá quặng sắt kỳ hạn trên sàn Đại Liên tăng 1% lên 473,5 NDT/tấn, bất chấp dự trữ tại các cảng ở mức cao. Dự trữ quặng sắt tại các cảng lớn của Trung Quốc giảm đáng kể xuống còn 161,03 triệu tấn, hầu hết là quặng từ Australia, so với mức cao kỷ lục 161,98 triệu tấn trong tuần trước đó, công ty SteelHome cho biết. Giá quặng sắt giao ngay sang cảng Tần Hoàng Đảo giảm 0,7% xuống còn 66,75 USD/tấn ngày thứ hai (11/6), Metal Bulletin cho biết.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 tăng 0,3 cent tương đương 0,3% lên 1,195 USD/lb. Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9 giảm 8 USD tương đương 0,5% xuống còn 1.715 USD/tấn.
Giá ca cao kỳ hạn tháng 9 tại New York tăng 36 USD, tương đương 1,5% lên 2.444 USD/tấn, sau khi giảm xuống mức thấp nhất 3 tháng vào tuần trước đó, ở mức 2.320 USD/tấn. Các đại lý cho biết, thị trường được củng cố bởi lo ngại về thời tiết khô tại khu vực sản xuất hàng đầu Ivory Coast. Giá ca cao kỳ hạn tháng 9 tại London tăng 14 GBP tương đương 0,8% lên 1.749 GBP/tấn.
Giá đường thô kỳ hạn tăng bởi hoạt động mua bù thiếu và lượng bán ra giảm. Giá đường thô kỳ hạn tháng 10 tăng 0,03 cent, tương đương 0,2% lên 12,67 cent/lb.
Các đại lý cho biết, sản lượng mía và đường tại khu vực trung nam Brazil giảm trong nửa cuối tháng 5, một phần do cuộc đình công của lái xe trên phạm vi cả nước. Khu vực này đã sản xuất 1,34 triệu tấn đường trong nửa cuối tháng 5/2018, so với 1,907 triệu tấn giai đoạn 2 tuần trước đó, Tập đoàn công nghiệp mía đường Unica cho biết. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8 tăng 1 USD, tương đương 0,3% lên 352 USD/tấn.
Chính phủ Philippines đã cho phép các thương nhân nhập khẩu 200.000 tấn đường để ổn định nguồn cung và giá đường trên thị trường trong nước. Trong tổng số khối lượng được Cơ quan Quản lý đường Philippines phê duyệt, gồm 100.000 tấn đường tinh luyện được các nhà đóng chai sử dụng; 50.000 tấn, đường tinh luyện cấp tiêu chuẩn; và 50.000 tấn đường thô để tiêu thụ trong nước. Các nguồn tin trong ngành cho hay giới thương lái nhiều khả năng sẽ nhập khẩu đường từ Thái Lan, nước láng giềng Đông Nam Á gần nhất. Theo đó, nhập khẩu đường từ Thái Lan bị đánh thuế 5% và sẽ chỉ mất 7 ngày để vận chuyển đến Philippines. Thái Lan được coi là quốc gia sản xuất đường lớn nhất Đông Nam Á.
Đối với ngũ cốc, giá duy trì vững sau khi giảm mạnh gần đây khi cuộc họp thượng đỉnh Mỹ - Triều tại Singapore dấy lên kỳ vọng căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc suy giảm, khả năng sẽ thúc đẩy xuất khẩu. Lúa mì kỳ hạn tại Mỹ tăng gần 4%, mức tăng mạnh nhất trong 1 tháng sau khi Bộ Nông nghiệp Mỹ giảm ước tính sản lượng lúa mì tại nước xuất khẩu hàng đầu – Nga. USDA nâng ước tính sản lượng lúa mì Mỹ niên vụ 2018/19 thêm 6 triệu bushel lên 1,827 tỉ bushel nhưng cắt giảm sản lượng lúa mì Nga xuống còn 68,5 triệu tấn so với 72 triệu tấn ước tính trước đó. Giá ngô kỳ hạn tháng 7 trên sàn Chicago tăng 10-1/4 cent lên 3,77-1/2 USD/bushel và giá lúa mì kỳ hạn tháng 7 tại Chicago tăng 20 cent lên 5,34-1/2 USD/bushel, mức tăng mạnh nhất kể từ ngày 18/5. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 7 tại Chicago tăng 1/4 cent lên 9,54 USD/bushel, hồi phục từ mức thấp nhiều tháng ở mức 9,52 USD/bushel.
Giá cao su kỳ hạn trên sàn TOCOM, hợp đồng tham chiếu chấm dứt chuỗi giảm 2 phiên liên tiếp do đồng yên suy yếu trở lại, nhưng tồn kho ở mức cao khiến giá vẫn chạm gần mức thấp nhất 2 tuần trong phiên trước đó. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 11 trên sàn TOCOM kết thúc phiên tăng 1,6 JPY lên 186,5 JPY (1,69 USD)/kg. Trong phiên có lúc đạt 184,3 JPY/kg, mức thấp nhất 2 tháng, do thị trường chịu áp lực bởi tồn kho tại Nhật Bản và các quốc gia tiêu thụ khác ở mức cao. Tại Thượng Hải hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 9 giảm 5 NDT xuống còn 11.400 NDT (1.780 USD)/tấn. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 7 trên sàn SICOM tăng 0,6 US cent lên 140,8 Uscent/kg.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

66,36

+0,26

+0,35%

Dầu Brent

USD/thùng

75,88

-0,58

-0,64%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

49.070,00

-370,00

-0,75%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,93

-0,01

-0,24%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

208,14

-0,85

-0,41%

Dầu đốt

US cent/gallon

215,24

-0,94

-0,43%

Dầu khí

USD/tấn

661,25

-6,00

-0,90%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

67.050,00

-300,00

-0,45%

Vàng New York

USD/ounce

1.298,50

-0,90

-0,07%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.594,00

+2,00

+0,04%

Bạc New York

USD/ounce

16,85

-0,05

-0,27%

Bạc TOCOM

JPY/g

59,60

-0,10

-0,17%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

898,11

-1,16

-0,13%

Palladium giao ngay

USD/ounce

1.020,30

-2,20

-0,22%

Đồng New York

US cent/lb

323,55

-1,40

-0,43%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn

7.222,00

-33,00

-0,45%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn

2.302,00

+1,00

+0,04%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn

3.199,00

-2,00

-0,06%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn

21.125,00

-50,00

-0,24%

Ngô

US cent/bushel

375,75

-1,75

-0,46%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

529,25

-5,25

-0,98%

Lúa mạch

US cent/bushel

243,50

+1,25

+0,52%

Gạo thô

USD/cwt

11,93

+0,01

+0,04%

Đậu tương

US cent/bushel

944,00

-10,00

-1,05%

Khô đậu tương

USD/tấn

350,60

-2,90

-0,82%

Dầu đậu tương

US cent/lb

30,09

+0,04

+0,13%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

510,20

-0,80

-0,16%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.444,00

+36,00

+1,50%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

119,50

+0,30

+0,25%

Đường thô

US cent/lb

12,67

+0,03

+0,24%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

154,30

-2,70

-1,72%

Bông

US cent/lb

92,60

-0,30

-0,32%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

569,60

-10,00

-1,73%

Cao su TOCOM

JPY/kg

182,00

-4,50

-2,41%

Ethanol CME

USD/gallon

1,44

+0,02

+1,26%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg

 

 

Nguồn: Vinanet