Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng khá mạnh theo đà tăng của thị trường chứng khoán Mỹ.
Dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 3/2017 trên sàn New York giá tăng 1,03 USD (tương đương 2%), lên 53,78 USD/thùng; dầu Brent Biển Bắc giao cùng kỳ hạn trên sàn London cũng tăng 1,16 USD (2,1%), lên 56,24 USD/thùng.
Trong phiên giá dầu ngọt nhẹ WTI có lúc chạm mức "đỉnh" của hơn ba tuần là 54,06 USD/thùng, khi Phố Wall vừa mở cửa và các chỉ số chứng khoán chủ chốt của Mỹ đồng loạt "nhích" nhẹ theo đà tăng ấn tượng của phiên trước đó.
Tuy nhiên, đà tăng giá dầu bị hạn chế bởi những thông tin mới cho thấy lượng dự trữ nhiên liệu của Mỹ vẫn tăng mạnh, bất chấp nỗ lực cắt giảm sản lượng của nhiều nhà sản xuất dầu mỏ trên thế giới.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA cho biết lượng dự trữ dầu của nước này đã tăng 2,8 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 20/1, lên 488,3 triệu thùng, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Dự trữ xăng của nước này cũng tăng mạnh, lên 253 triệu thùng - mức cao nhất trong một thế kỷ so với thời điểm này hàng năm.
Số liệu của EIA không nằm ngoài dự báo của các nhà phân tích, song vẫn khiến nhiều nhà đầu tư nản lòng. Tình từ giữa năm ngoái, sản lượng dầu thô của Mỹ đã tăng 6,3%, lên 8,96 triệu thùng/ngày.
Số liệu trên làm giảm hiệu quả của những nỗ lực gần đây của các nước trong và ngoài Tổ chức các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC). Tổ chức này đã đạt được thỏa thuận về cắt giảm sản lượng nhằm nâng giá dầu thế giới vào hồi cuối tháng 11 và đầu tháng 12 năm 2016.
Giới phân tích nhận định, giá dầu ngọt nhẹ vẫn dao động trong biên độ hẹp kể từ sau thỏa thuận hạn chế nguồn cung của OPEC, song điều này sẽ không kéo dài nếu Mỹ tiếp tục nâng sản lượng.
Theo nguồn tin từ ngành dầu mỏ, OPEC và một số nước xuất khẩu dầu mỏ khác đang thúc đẩy mọi biện pháp để hướng tới mục tiêu giảm sản lượng gần 1,8 triệu thùng/ngày trong nửa đầu năm 2017.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tiếp tục giảm xuống mức thấp nhất 2 tuần do đồng USD mạnh lên và thị trường chứng khoán khởi sắc. Tuy nhiên, những đồn đoán về khả năng đi lên của đồng bạc xanh sẽ sớm kết thúc đã hạn chế phần nào đà giảm của giá vàng.
Giá vàng giao ngay giảm 1%, xuống 1.187,93 USD/ounce, sau khi có thời điểm vào giữa phiên rơi xuống mức thấp nhất kể từ ngày 11/1 là 1.184,03 USD/ounce; vàng giao tháng 2/2017 cũng giảm 8 USD (0,67%), xuống 1.189.90 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD, thước đo giá trị của đồng tiền Mỹ so với rổ các đồng tiền quốc tế chủ chốt tăng 0,48%, lên 100,40. Đồng bạc xanh mạnh hơn khiến các mặt hàng được định giá bằng đồng tiền này như vàng trở nên đắt hơn, qua đó làm giảm sức mua đối với mặt hàng kim loại quý này.
Thêm vào đó, thị trường chứng khoán đi lên và lãi suất trái phiếu Chính phủ được hỗ trợ bởi phát biểu của tân Tổng thống Mỹ Donald Trump "bóng gió" về kế hoạch sẽ thúc đẩy chi tiêu công, càng tạo sức ép giảm lên giá vàng, vốn được coi là "nơi trú ẩn an toàn" của giới đầu tư trong thời kỳ bất ổn.
Về những kim loại quý khác, giá pallađi giảm 1%, xuống 722 USD/ounce, sau khi có lúc chạm mức thấp nhất ba tuần là 711,15 USD/ounce. Mặt hàng này đã mất hơn 7% giá trị trong ngày 25/1, mức giảm mạnh nhất trong ngày kể từ tháng 4/2013. Giá bạc giao ngay cũng hạ 0,9%, xuống 16,79 USD/ounce. Tuy nhiên, đi ngược xu hướng trên, giá bạch kim lại tăng nhẹ 0,08%, lên 978,50 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, cà phê và cacao đều giảm giá. Cacao xuống mức thấp nhất hơn 6 tuần.
Robusta kỳ hạn giao tháng 3 giá giảm 21 USD hay 0,9% xuống 2210 USD/tấn; arabica giao cùng kỳ hạn giảm 1,45 US cent hay 1% xuống 1,5145 USD/lb, tiếp nối đà giảm của phiên trước bởi dự báo sẽ có mưa ở khu vực trồng cà phê chính của Brazil, thuận lợi cho cây phát triển.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
53,78
|
+1,03
|
+2%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
56,24
|
+1,16
|
+2,1%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
39.910,00
|
+210,00
|
+0,53%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,25
|
-0,13
|
-3,84%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
154,56
|
+0,29
|
+0,19%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
164,75
|
+0,66
|
+0,40%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
494,25
|
+0,25
|
+0,05%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
48.550,00
|
+380,00
|
+0,79%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.184,90
|
-4,90
|
-0,41%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.369,00
|
+11,00
|
+0,25%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,79
|
-0,06
|
-0,39%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
61,90
|
+0,50
|
+0,81%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
972,32
|
-5,83
|
-0,60%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
731,90
|
+8,89
|
+1,23%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
266,75
|
-0,55
|
-0,21%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
5.857,00
|
-85,00
|
-1,43%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.820,00
|
-13,50
|
-0,74%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.763,00
|
-38,00
|
-1,36%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19.975,00
|
-450,00
|
-2,20%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
362,75
|
-1,00
|
-0,27%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
426,50
|
-0,50
|
-0,12%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
256,75
|
+1,50
|
+0,59%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
9,72
|
-0,03
|
-0,36%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.044,75
|
-4,75
|
-0,45%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
340,80
|
-1,60
|
-0,47%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
34,30
|
-0,17
|
-0,49%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
520,00
|
-0,30
|
-0,06%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.132,00
|
-60,00
|
-2,74%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
151,45
|
-1,45
|
-0,95%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
20,36
|
+0,02
|
+0,10%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
164,35
|
-2,30
|
-1,38%
|
Bông
|
US cent/lb
|
74,25
|
+0,06
|
+0,08%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
332,00
|
+3,30
|
+1,00%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
344,10
|
+11,10
|
+3,33%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,49
|
+0,02
|
+1,29%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg