Trên thị trường năng lượng, giá dầu quay đầu giảm sau số liệu cho thấy lượng xăng dự trữ của Mỹ đã bất ngờ tăng lên trong tuần trước.
Kết thúc phiên, dầu thô ngọt nhẹ (WTI) giảm 95 US cent (1,3%) xuống 67,77 USD/thùng; dầu Brent giảm 77 US cent, hay 1%, xuống 76,50 USD/thùng.
Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA) ngày 6/9 cho biết lượng dầu thô dự trữ của Mỹ giảm hơn mức dự đoán khi hoạt động lọc dầu gia tăng, trong khi lượng xăng và các sản phẩm chưng cất lại tăng lên.
Chứng khoán, trái phiếu và tiền tệ tại thị trường mới nổi đều giảm trong mấy tuần gần đây do khủng hoảng tài chính tại các nước Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Phi và Venezuela, cũng là yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu dầu. Ole Hansen, quản lý cấp cao thuộc Saxo Bank cho biết: "Trong tuần qua, áp lực lên giá dầu chuyển từ cung sang cầu và chứng khoán, trái phiếu và tiền tệ tại thị trường mới nổi, gây áp lực đối với triển vọng nhu cầu dầu trung và dài hạn".
Mặc dù giảm trong phiên vừa qua, song nhìn chung thị trường dầu đang được hỗ trợ bởi nhiều thông tin tích cực. Nguồn cung từ Iran dự kiến mất đi ít nhất là 1 triệu thùng/ngày từ đầu tháng 11 tới, khi các lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Tehran bắt đầu có hiệu lực. Giá dầu đã tăng 3% kể từ khi chính quyền Mỹ công bố các lệnh trừng phạt này hồi tháng Năm. Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) mới đây dự đoán nhu cầu dầu toàn cầu sẽ lần đầu tiên vượt qua mốc 100 triệu thùng/ngày vào cuối năm nay. Bên cạnh đó, Venezuela cũng là một nguy cơ khác đối với thị trường dầu mỏ, khi cuộc khủng hoảng chính trị và rối ren ở đây đã làm sản lượng dầu của nước này giảm 50% trong hai năm qua xuống còn hơn 1 triệu thùng/ngày.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng do hoạt động mua mạnh ở châu Á trong bối cảnh USD yếu đi. Vàng giao ngay có thời điểm tăng 0,3% lên 1.199,68 USD/ounce, sau khi đã tăng 0,5% trong phiên trước; vàng giao tháng 12/2018 tăng 3 USD (0,3%) lên đóng cửa ở mức 1.204,30 USD/ounce.
Đồng USD đã giảm so với giỏ tiền tệ gồm sáu đồng tiền lớn trên thị trường.
Giá vàng đã giảm hơn 12% kể từ mức đỉnh 1.365,23 USD/ounce được ghi nhận hồi tháng Tư. Theo các nhà giao dịch, mức giá hiện nay của kim loại quý này đã thu hút nhiều người mua vào không chỉ tại những quốc gia tiêu thụ vàng lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, mà còn tại các nước Đông Nam Á với mục đích đầu tư. Thống kê cho thấy lượng vàng nhập khẩu của Ấn Độ đã tăng hơn gấp đôi trong tháng Tám, lên mức cao nhất trong 15 tháng qua.
Tuy nhiên, các chuyên gia lưu ý căng thẳng thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc vẫn là yếu tố “phủ bóng mây” lên thị trường vàng. Bộ Thương mại Trung Quốc ngày 6/9 tuyên bố Bắc Kinh sẽ buộc phải đáp trả nếu Mỹ thực hiện các biện pháp thuế quan mới đối với Trung Quốc. Trước đó, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã đe dọa áp mức thuế 25% đối với lượng hàng hóa nhập khẩu trị giá 200 tỷ USD từ Trung Quốc.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm xuống 14,14 USD/ounce; bạch kim tăng 1% lên 790,90 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng tăng do các quỹ đầu tư mua bù thiếu và đồng USD suy yếu, song mức tăng không chắc chắn do chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc leo thang.
Giá đồng kỳ hạn giao sau trên sàn London tăng 0,9% lên 5.927,5 USD/tấn, hồi phục từ mức thấp nhất 14 tháng (5.773 USD/tấn) trong ngày 15/8/2018, song vẫn giảm khoảng 20% kể từ mức cao nhất 4,5 năm (7.348 USD/tấn) trong tháng 6/2018. Trung Quốc là nước tiêu thụ đồng lớn nhất thế giới, chiếm gần 1/2 nhu cầu toàn cầu đạt khoảng 24 triệu tấn trong năm nay, trong khi Mỹ chiếm khoảng 8% nhu cầu toàn cầu.
Trên thị trường nông sản, giá đường giảm lần đầu tiên trong 6 phiên, sau hoạt động bán tháo gia tăng, trong khi giá cà phê arabica cũng giảm do real Brazil – nước sản xuất hàng đầu thế giới – thấp nhất 3 năm so với USD.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2018 giảm 0,09 US cent tương đương 0,8% xuống 10,8 US cent/lb, chỉ thấp hơn mức cao nhất 4 tuần (10,97 US cent/lb) trong phiên trước đó. Đường trắng kỳ hạn tháng 12/2018 giảm 4,7 USD tương đương 1,4% xuống 329,5 USD/tấn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2018 giảm 1,6 US cent tương đương 1,5% xuống 1,022 USD/lb và cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2018 giảm 9 USD tương đương 0,6% xuống 1.492 USD/tấn.
Theo xu hướng giá thế giới, cà phê Việt Nam chạm mức thấp nhất trong gần 2,5 năm, trong khi giao dịch tại thị trường Indonesia trầm lắng.
Giá lúa mì giảm phiên thứ 3 liên tiếp xuống thấp nhất trong hơn 7 tuần, do dự kiến tiêu thụ lúa mì xuất khẩu của Mỹ tiếp tục giảm. Các nhà xuất khẩu Biển Đen vẫn đang tích cực bán tại châu Á và các khu vực khác dẫn tới ít tiêu thụ lúa mì của Mỹ. Trong khi đó, giá ngô và đậu tương tăng song mức tăng bị hạn chế do chiến tranh thương mại với Trung Quốc leo thang.
Giá lúa mì mềm, đỏ vụ đông kỳ hạn tháng 12/2018 trên sàn Chicago kết thúc phiên giảm 8 US cent xuống 5,13-3/4 USD/bushel. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2018 trên sàn Chicago tăng 1-1/4 US cent lên 8,39-1/4 USD/bushel và giá ngô kỳ hạn tháng 12/2018 tăng 1 US cent lên 3,66-1/4 USD/bushel.
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo giảm phiên thứ 5 liên tiếp và kết thúc phiên giảm xuống mức thấp nhất gần 1,5 tháng, trong bối cảnh lo ngại về tăng trưởng kinh tế sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump đe dọa thuế quan mới đối với nhập khẩu hàng hóa của Trung Quốc có trị giá 200 tỉ USD. Giá cao su kỳ hạn tháng 2/2019 trên sàn Tokyo giảm 0,4 JPY xuống 167,6 JPY (1,51 USD)/kg, thấp nhất kể từ ngày 26/7/2018. Trong khi đó, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2019 trên sàn Thượng Hải tăng 65 CNY tương đương 0,5% lên 12.060 CNY (1.766 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

 

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

67,77

-0,95

-1,3%

Dầu Brent

USD/thùng

76,50

-0,77

-1%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

49.510,00

-710,00

-1,41%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,78

+0,01

+0,36%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

195,87

+0,77

+0,39%

Dầu đốt

US cent/gallon

221,14

+0,23

+0,10%

Dầu khí

USD/tấn

680,50

+0,50

+0,07%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

67.960,00

-600,00

-0,88%

Vàng New York

USD/ounce

1.208,60

+4,30

+0,36%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.264,00

-7,00

-0,16%

Bạc New York

USD/ounce

14,25

+0,06

+0,45%

Bạc TOCOM

JPY/g

50,40

-0,20

-0,40%

Bạch kim

USD/ounce

792,66

+1,01

+0,13%

Palađi

USD/ounce

975,87

+0,01

+0,00%

Đồng New York

US cent/lb

264,40

+0,75

+0,28%

Đồng LME

USD/tấn

5.927,50

+56,50

+0,96%

Nhôm LME

USD/tấn

2.040,00

-28,00

-1,35%

Kẽm LME

USD/tấn

2.441,00

+21,50

+0,89%

Thiếc LME

USD/tấn

18.850,00

+25,00

+0,13%

Ngô

US cent/bushel

365,50

-0,75

-0,20%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

513,25

-0,50

-0,10%

Lúa mạch

US cent/bushel

247,50

+0,50

+0,20%

Gạo thô

USD/cwt

10,88

+0,07

+0,65%

Đậu tương

US cent/bushel

839,50

+0,25

+0,03%

Khô đậu tương

USD/tấn

314,00

0,00

0,00%

Dầu đậu tương

US cent/lb

28,54

+0,01

+0,04%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

498,40

+0,10

+0,02%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.281,00

-30,00

-1,30%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

102,20

-1,60

-1,54%

Đường thô

US cent/lb

10,80

-0,09

-0,83%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

152,70

-0,20

-0,13%

Bông

US cent/lb

81,37

+0,07

+0,09%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

397,50

-14,90

-3,61%

Cao su TOCOM

JPY/kg

167,50

-0,10

-0,06%

Ethanol CME

USD/gallon

1,28

-0,01

-1,00%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg