Năng lượng: Giá dầu giảm
Phiên cuối tuần, giá dầu ngọt nhẹ (WTI) giao tháng 9/2018 trên sàn Nymex (New York) giảm 47 US cent (tương đương 0,7%) xuống 68,49 USD/thùng; ngày 1/8, giá dầu này đóng cửa ở mức 67,66 USD/thùng – mức thấp nhất kể từ ngày 21/6, tính chung cả tuần qua, dầu WTI giảm 0,3%. Brent Biển Bắc giao tháng 10/201trên sàn London phiên cuối tuần cũng giảm 24 US cent (tương đương 0,3%) còn 73,21 USD/thùng, tính chung cả tuần giá giảm 2,1%.
Xu hướng gia tăng sản lượng của các nhà sản xuất dầu chủ chốt trên thế giới đã chặn đứng đà tăng của giá dầu.
Sau khi OPEC và một số nước sản xuất dầu mỏ lớn khác trong đó có Nga nhất trí nâng sản lượng để giúp thị trường cân bằng sau đợt giá tăng mạnh trước đó, sản lượng dầu Nga đã tăng 150.000 thùng/ngày trong tháng 7/2018 từ mức 11,21 triệu thùng/ngày của tháng trước đó.
Kết quả khảo sát của Platts cho thấy, sản lượng dầu mỏ của Saudi Arabia hiện đạt mức 10,63 triệu thùng/ngày, gần mức cao kỷ lục 10,66 triệu thùng/ngày. Trong khi đó sản lượng của Mỹ cũng duy trì cao. Tồn tữ dầu thô của Mỹ tuần qua tăng 3,8 triệu thùng vì nhập khẩu tăng, theo số liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng. Sản lượng của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ và Nga trong tháng 7/2018 ước tính đều tăng sau khi các nước này nhất trí nâng sản lượng để giúp thị trường cân bằng sau đợt giá tăng mạnh trước đó.
Thị trường dầu thô còn chịu thêm sức ép bởi lo ngại căng thẳng thương mại trên toàn cầu có thể kìm hãm tăng trưởng kinh tế. Trung Quốc tuyên bố sẽ đáp trả Mỹ sau khi Whashington thông báo nâng thuế đối với 200 tỷ USD hàng hóa nhập từ Trung Quốc. Kế hoạch thuế mới của Trung Quốc sẽ nhằm vào nhiều mặt hàng trong đó có khí tự nhiên hóa lỏng, khiến thị trường lo ngại có thể nước này sẽ đánh thuế lên cả dầu. Trên thực tế, công ty dầu quốc doanh Sinopec của Trung Quốc đã giảm mua dầu thô của Mỹ.
Tuy nhiên, theo Robbie Fraser, chuyên gia phân tích hàng hóa tại Schneider Electric, việc Mỹ tái áp đặt các lệnh trừng phạt với Iran tiếp tục là nguy cơ đối với thị trường toàn cầu. Song Washington có thể không thể thực hiện được mục đích ngăn chặn hoàn toàn hoạt động xuất khẩu dầu của Iran do Trung Quốc- nước tiêu thụ dầu lớn nhất của Iran- mới đây đã từ chối đề xuất không nhập khẩu dầu từ Iran của Mỹ.
Theo công ty dịch vụ dầu khí Baker Hughes, số giàn khoan dầu đang hoạt động tại Mỹ trong tuần qua đã giảm 2 giàn xuống 859 giàn.

Than cũng tăng giá mạnh trong phiên vừa qua mặc dù thuế mới của Trung Quốc đối với hàng hóa Mỹ chưa có tên than cốc và than luyện cốc. Than cốc kỳ hạn tháng 9/2018 có lúc đạt 2.459,50 CNY/tấn (cao nhất kể từ giữa tháng 9/2017) và kết thúc phiên tăng 2% đạt 2.432,50 NDT/tấn. Tương tự, than luyện cốc tăng 2,3% lên 1.219 CNY/tấn vào cuối phiên, sau khi có lúc đạt 1.239 CNY.

Kim loại quý: Giá vàng tiếp tục giảm
Phiên cuối tuần, giá vàng tăng trở lại sau khi gần chạm mức thấp nhất 17 tháng, giữa bối cảnh báo cáo việc làm tháng 7/2018 của Mỹ yếu hơn kỳ vọng và Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC) nỗ lực nâng giá đồng NDT. Giá vàng giao ngay tăng 0,6%, lên 1.214,79 USD/ounce vào cuối phiên, trước đó đầu phiên có lúc giá xuống 1.204 USD/ounce - thấp nhất kể 15/3/2017, nhưng sau đó có thời điểm tăng 1% lên 1.220,01 USD/ounce. Vàng giao tháng 12/2018 3,10 USD (tương đương gần 0,3%) lên 1.223,20 USD/ounce. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, vàng vẫn giảm 0,8%, đánh dấu tuần sụt giảm thứ tư liên tiếp do đồng USD trên đà tăng mạnh.
Về những kim loại quý khác, giá bạc phiên cuối tuần tăng 0,7% lên 15,41 USD/ounce song vẫn ghi dấu tuần giảm giá thứ tám liên tiếp; giá palađi mất 0,1% xuống 910,75 USD/ounce, nâng tổng mức giảm trong tuần qua lên 0,8%; còn giá bạch kim lại tăng 0,8%, lên 828,99 USD/ounce, ghi nhận mức tăng 0,4% cả tuần.
Chỉ số đồng USD – thước đo diễn biến của đồng USD so với sáu đồng tiền chủ chốt khác – đã tăng 0,5% trong tuần qua. Song trong phiên cuối tuần ngày 3/8, chỉ số đồng USD đã suy yếu sau khi báo cáo từ Bộ Lao động Mỹ cho hay, trong tháng Bảy vừa qua, nền kinh tế lớn nhất thế giới đã tạo ra thêm 157.000 việc làm, thấp hơn dự báo là tạo thêm 195.000 việc làm của MarketWatch, mặc dù tỷ lệ thất nghiệp đã giảm từ 4% trong tháng 6/2018 xuống 3,9%.
Cùng ngày, báo cáo từ Viện Quản lý nguồn cung Mỹ (ISM) cho biết, chỉ số hoạt động lĩnh vực phi chế tạo của Mỹ trong tháng 7/2018 đã giảm xuống 55,7% từ mức 59,1% của tháng trước đó và là mức thấp nhất 11 tháng qua.
Hiện các nhà đầu tư tỏ ra không mấy mặn mà với kim loại quý này, ngay cả khi căng thẳng thương mại giữa Mỹ và các đối tác khác trên thế giới leo thang tạo điều kiện cho các kênh đầu tư an toàn. Theo một báo cáo từ Hội đồng Vàng Thế giới (WGC) trong ngày 2/8/2018, nhu cầu vàng toàn cầu sụt 4% xuống 964 tấn trong quý 2/2018.
Các nhà phân tích của ScotiaMocatta dự báo giá vàng sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới. Trước đồn đoán Fed sẽ nâng lãi suất vào tháng Chín, nhà phân tích Bernard Dahdah, thuộc Natixis giá vàng có thể giảm xuống dưới 1.200 USD/ounce trước khi Fed công bố quyết định lãi suất trong cuộc họp tháng Chín tới.
Tuy nhiên, theo nhà quản lý cấp cao George Gero của công ty tư vấn đầu tư RBC Wealth Management, nếu Trung Quốc và Mỹ thực sự tiến hành đàm phán và đạt được kết quả khả quan, điều này sẽ hỗ trợ cho thị trường kim loại bởi lẽ nó sẽ giúp Trung Quốc trở lại thị trường vàng và tiếp nhận các đơn hàng. Đã có những lo ngại về việc Trung Quốc dừng tiếp nhận các đơn hàng vì các khoản thuế quan và đồng USD mạnh lên.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm, sắt thép tăng
Đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 1,1% trong phiên cuối tuần, xuống 6.206 USD/tấn, sau khi có lúc xuống chỉ 6.074 USD. Tính chung cả tuần giá giảm bởi căng thẳng thương mại gia tăng giữa Mỹ và Trung Quốc.
Cũng trong phiên cuối tuần, giá thép cây tại Trung Quốc vào đầu phiên lên cao nhất trong vòng 5,5 năm bởi Trung Quốc kế hoạch sẽ kiềm chế sản lượng trong mùa Đông năm thứ 2 liên tiếp, mặc dù đà tăng bị hạn chế chút ít bởi cuộc chiến thuế. Thép cây kỳ hạn tháng 10/2018 trên sàn Thượng Hải có lúc đạt 4.213 CNY/tấn (gần chạm mức cao nhất 5,5 năm của ngày 1/8/2018), và kết thúc phiên tăng 0,5% so với phiên trước đó, đạt 4.188 CNY/tấn.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng lên mức cao nhất kể từ giữa tháng 3/2018 sau khi Bắc Kinh tuyên bố áp thuế lên 60 tỷ USD hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc và cảnh báo sẽ có thêm các biện pháp khác nữa, dấu hiệu cho thấy họ sẽ không nhượng bộ trong cuộc chiến thương mại với Washington. Thuế mới sẽ nhắm vào các sản phẩm từ khí gas đến quặng sắt, thép, máy bay... Quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng 4,9% lên 505 CNY/tấn, cao nhất kể từ tháng 3/2018 và là phiên tăng mạnh nhất kể từ giữa tháng 11/2016.
Trung Quốc là nước tiêu thụ quặng sắt lớn nhất thế giới, khối lượng quặng sắt nhập của Mỹ không nhiều (730.000 tấn trong năm 2017, một tỷ lệ nhỏ trong tổng lượng 1 tỷ tấn nhập vào thị trường này).
Nông sản: Giá biến động
Cà phê arabica giao tháng 9/2018 tăng 1,05 US cent tương đương 0,98% lên 1,0077 USD/lb do đồng real brazil mạnh lên, tính chung cả tuần giá vẫn giảm hơn 2%. Robusta giao cùng kỳ hạn cũng tăng 18 USD tương đương 1,09% lên 1.662 USD/tấn. Kế hoạch tăng thuế của Trung Quốc lên 60 tỷ USD hàng hóa Mỹ cũng bao gồm cả cà phê rang xay. Giới chuyên gia dự báo giá arabica sẽ tăng 22% vào cuối 2018 do lo ngại thời tiết kho hạn ở Brazil và biến động tiền tệ tại quốc gia này.
Đối với mặt hàng đường, giá đường thô phiên cuối tuần tăng 0,27 US cent tương đương 2,6% lên 10,85 USD/lb, phiên trước đó giá xuống chỉ 10,37 US cent. Đường trắng giao tháng 10/2018 cũng tăng 6 USD tương đương 1,89% lên 324,30 USD/tấn.
Giá cacao tại New York kỳ hạn giao tháng 9/2018 giảm 26 USD tương đương 1,3% trong phiên vừa qua, xuống 2.046 USD/tấn, không xa mấy so với mức thấp nhất 5,5 tháng ở đầu phiên (2.039 USD/tấn) và tính chung cả tuần giảm hơn 8%. Cacao tại London cũng giảm 15 GBP (0,94%) xuống 1.587 GBP/tấn, và giảm hơn 5% trong tuần. Sản lượng cacao Cameroon niên vụ 2017/18 tăng 9,5% so với năm trước đó, theo thống kê từ quốc gia này.
Thị trường ngũ cốc tiếp tục khởi sắc vì thời tiết xấu ở nhiều nơi trên thế giới có thể khiến dự trữ lúa mì toàn cầu giảm và sản lượng có thể thấp nhất 5 năm. Giá đậu tương chốt phiên cuối tuần vững do hoạt động mua vào sau khi có lúc chạm mức thấp nhất 1 tuần bởi lo ngại căng thẳng thương mại gia tăng. Đậu tương giao tháng 11 tại Chicago tăng 4-3/4 UScent lên 9,02-1/4 USD/bushel, tính chung cả tuần tăng 1,9%. Lúa mì giảm nhẹ vào cuối phiên, giảm 4-1/4 US cent xuống 5,56-1/4 USD/bushel, trước đó có lúc đạt mức cao nhất 3 năm. Tính chung cả tuần vẫn tăng 4,9%, là tuần tăng thứ 3 liên tiếp. Ngô tăng 3% trong phiên vừa qua lên 3,69-3/4 USD/bushel, tính chung cả tuần tăng 2,1%.

 

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá 28/7

Giá 4/8

Giá 4/8 so với 3/8

Giá 4/8 so với 3/8 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

68,69

68,49

-0,47

-0,68%

Dầu Brent

USD/thùng

74,29

73,21

-0,24

-0,33%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

50.170,00

49.130,00

-70,00

-0,14%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,78

2,85

+0,04

+1,31%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

216,19

206,55

-0,26

-0,13%

Dầu đốt

US cent/gallon

215,52

212,69

-0,49

-0,23%

Dầu khí

USD/tấn

667,50

652,00

+4,25

+0,66%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

68.180,00

67.430,00

+20,00

+0,03%

Vàng New York

USD/ounce

1.232,70

1.223,20

+3,10

+0,25%

Vàng Tokyo

JPY/g

4.358,00

4.335,00

+12,00

+0,28%

Bạc New York

USD/ounce

15,49

15,46

+0,08

+0,50%

Bạc TOCOM

JPY/g

55,10

55,10

+0,20

+0,36%

Bạch kim

USD/ounce

831,12

831,00

+7,23

+0,88%

Palladium

USD/ounce

925,40

912,80

-3,48

-0,38%

Đồng New York

US cent/lb

280,20

276,35

+2,60

+0,95%

Đồng LME

USD/tấn

6.297,00

6.206,00

+66,50

+1,08%

Nhôm LME

USD/tấn

2.071,00

2.028,00

-8,00

-0,39%

Kẽm LME

USD/tấn

2.596,00

2.631,00

+68,00

+2,65%

Thiếc LME

USD/tấn

19.925,00

19.600,00

-5,00

-0,03%

Ngô

US cent/bushel

376,25

384,25

+3,00

+0,79%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

530,50

579,75

-3,00

-0,51%

Lúa mạch

US cent/bushel

239,25

257,00

+6,25

+2,49%

Gạo thô

USD/cwt

12,01

11,50

-0,13

-1,16%

Đậu tương

US cent/bushel

885,25

902,25

+4,75

+0,53%

Khô đậu tương

USD/tấn

331,10

331,80

-0,80

-0,24%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,02

28,86

+0,25

+0,87%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

493,60

494,00

-2,00

-0,40%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.233,00

2.114,00

-24,00

-1,12%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

110,45

107,75

+1,05

+0,98%

Đường thô

US cent/lb

10,88

10,85

+0,26

+2,46%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

163,80

168,90

+1,15

+0,69%

Bông

US cent/lb

88,34

88,12

-0,71

-0,80%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

463,30

430,50

+5,10

+1,20%

Cao su TOCOM

JPY/kg

168,30

169,10

+0,80

+0,48%

Ethanol CME

USD/gallon

1,44

1,44

0,00

0,00%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg