Giá lúa gạo hôm nay 18/5: Giá gạo tiếp đà tăng 50 đồng/kg
Giá lúa gạo hôm nay 18/5 tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục xu hướng đi ngang. Theo đó, tại kho An Giang, giá lúa Đài thơm 8 đang được thương lái thu mua ở mức 6.800 – 7.000 đồng/kg; OM 18 dao động quanh mốc 6.600 – 6.800 đồng; lúa IR 504 đang được thương lái thu mua ở mức 6.200 – 6.400 đồng/kg; lúa OM 5451 ở mức 6.300 - 6.400 đồng/kg; Nàng hoa 9 6.600 – 6.750 đồng/kg; lúa Nhật 7.800 – 8.000 đồng/kg; Nếp khô Long An 8.600 – 8.800 đồng/kg, nếp khô An Giang giá dao động 8.000 – 8.200 đồng/kg và lúa IR 504 khô duy trì ở mức 6.500 đồng/kg.
Với mặt hàng gạo, giá gạo nguyên liệu điều chỉnh tăng, trong khi giá gạo thành phẩm duy trì ổn định. Theo đó, giá gạo nguyên liệu ở mức 9.800 đồng/kg, tăng 50 đồng/kg; giá gạo thành phẩm duy trì ổn định ở 11.200 đồng/kg.
Với mặt hàng phụ phẩm, giá phụ phẩm duy trì ổn định. Theo đó, hiện giá tấm IR 504 ở mức 9.400 đồng/kg. Trong khi đó, cám khô dao động quanh mốc 7.350 - 7.450 đồng/kg.
Tại chợ lẻ, giá gạo duy trì ổn định sau phiên điều chỉnh. Theo đó, gạo thường còn 11.000 – 12.000 đồng/kg; gạo thơm Jasmine 14.000 – 15.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 15.000 đồng/kg; nếp ruột 16.000 – 18.000 đồng/kg; Gạo Nàng Nhen 22.000 đồng/kg; Gạo trắng thông dụng 14.500 đồng/kg; Nàng Hoa 18.500 đồng/kg; Sóc Thái 18.000 đồng/kg; Gạo thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg; Gạo Nhật 22.000 đồng/kg; Cám 7.500 – 8.000 đồng/kg; Gạo thơm Thái hạt dài duy trì 18.000 – 19.000 đồng/kg và Hương Lài 19.000 đồng/kg.
Theo các thương lái, hôm nay lượng gạo nguyên liệu về ít, giá gạo các loại bình ổn. Giá lúa Hè thu tương đối vững, giao dịch lúa mới đều. Giá nếp vụ Đông Xuân tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước. Đầu vụ Hè thu giá đang ở mức cao.
Trên thị trường xuất khẩu, theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, giá gạo xuất khẩu 5% tấm của Việt Nam ở mức 488 USD/tấn; gạo 25% tấm ở mức 468 USD/tấn; gạo Jasmine ở mức 553-557 USD/tấn.
Theo báo cáo của USDA tháng 5/2023, nhập khẩu gạo của Philippines trong năm 2023 dự báo tăng nhẹ trong khi nhập khẩu của Indonesia sẽ không đổi so với ước tính trước đó. Cùng với đó, USDA điều chỉnh tăng ước tính xuất khẩu gạo của Campuchia năm 2023 và giảm xuất khẩu của Miến Điện so với ước tính trước đó.
Số liệu thống kê cho thấy, xuất khẩu gạo sang thị trường EU tăng mạnh, đạt 94.510 tấn trong năm 2022, vượt hạn ngạch 80.000 tấn gạo hàng năm mà EU dành cho Việt Nam theo cam kết từ Hiệp định EVFTA.
Giá cà phê hôm nay, 18/5: Giá cà phê trong nước tiếp tục tăng mạnh
Giá cà phê trong nước hôm nay 18/5 tăng mạnh so với hôm qua, hiện dao động từ 56.300 – 56.700 đồng/kg.
Giá cà phê trong nước hôm nay 18/5 tại các tỉnh khu vực Tây Nguyên tăng 300-400 đồng/kg.
Cụ thể, giá cà phê nhân xô (cà phê nhân, cà phê nhân tươi) tại tỉnh Lâm Đồng ở các huyện như Bảo Lộc, Di Linh, Lâm Hà cà phê được thu mua với giá từ 56.200 – 56.300 đồng/kg.
Giá cà phê tại tỉnh Gia Lai, tỉnh Kon Tum tăng 300 đồng/kg, đứng ở mức giá 56.500 đồng/kg.
Tại tỉnh Đắk Nông, cà phê được thu mua với giá 56.700 đồng/kg, tăng 400 đồng/kg.
Giá cà phê hôm nay tại tỉnh Đắk Lắk ở huyện Cư M'gar giá cà phê hiện ở mức 56.600 đồng/kg. Còn tại huyện Ea H'leo, thị xã Buôn Hồ được thu mua cùng mức 56.700 đồng/kg.
Đối với giá cà phê thế giới, giá cà phê trên hai sàn ở xu hướng trái chiều.
Cụ thể, kết thúc phiên giao dịch giá cà phê Robusta trên sàn London tiếp nối đà tăng. Kỳ hạn giao ngay tháng 7 tăng thêm 23 USD, lên 2.511 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 9 tăng thêm 20 USD, lên 2.484 USD/tấn, các mức tăng rất đáng kể. Khối lượng giao dịch duy trì ở mức trung bình. Cấu trúc giá nghịch đảo nới rộng thêm khoảng cách.
Trái lại, giá cà phê Arabica trên sàn New York tiếp tục sụt giảm. Kỳ hạn giao ngay tháng 7 giảm 2,60 cent, xuống 186,80 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 9 giảm 2,30 cent, còn 184,45 cent/lb, các mức tăng cũng rất đáng kể. Khối lượng giao dịch khá cao trên mức trung bình.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dẫn số liệu thống kê từ Ủy ban Thương mại Quốc tế cho biết, 3 tháng đầu năm 2023, Thụy Sĩ nhập khẩu cà phê từ thế giới đạt 52,56 nghìn tấn, trị giá 310,92 triệu USD, giảm 4,2% về lượng, nhưng tăng 9,0% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Quý I/2023, Thụy Sĩ nhập khẩu chủ yếu cà phê (trừ cà phê rang xay và loại bỏ caffeine) có mã HS 090111, thị phần chiếm 89,48% tổng lượng, đạt trên 47 nghìn tấn, trị giá 255,92 triệu USD, giảm 3,4% về lượng, nhưng tăng 11,4% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái.
Quý I/2023, Thụy Sĩ nhập khẩu cà phê từ trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong đó, các nguồn cung cà phê cho Thụy Sĩ chủ yếu từ Brazil, Colombia, Việt Nam, Ấn Độ, Costa Rica…
Nhập khẩu cà phê của Thụy Sĩ từ Brazil trong quý I/2023 đạt xấp xỉ 13,27 nghìn tấn, trị giá 67,29 triệu USD, giảm 9,3% về lượng, nhưng tăng 10,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022. Thị phần cà phê của Brazil trong tổng lượng nhập khẩu của Thụy Sĩ giảm từ 26,67% trong quý I/2022 xuống 25,24% trong quý I/2023.
Vải thiều chín sớm được giá
Vải thiều chín sớm đang được bán với giá từ 50.000 - 90.000 đồng/kg. Dù chưa bước vào vụ mùa chính, nhưng tín hiệu thị trường tiêu thụ vải thiều khá khả quan.
Ngày 15/5, Hợp tác xã (HTX) dịch vụ nông nghiệp Hợp Đức HD ở xã Thanh Quang (huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương) đã bán gần 2 tạ vải u trứng trắng cho Công ty Thực phẩm sạch Biggreen Việt Nam (Hà Nội) với giá 90.000 đồng/kg. Đây là lô vải Thanh Hà đầu tiên được các xã viên thu hoạch. Vải thiều năm nay sáng mã, quả to, đẹp. Vải của HTX sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP.
Còn lại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, HTX nông nghiệp sản xuất và kinh doanh dịch vụ tổng hợp Hồng Xuân cũng vừa thu hoạch được 70kg quả vải chín sớm, chủ yếu làm quà biếu tặng. Vải chín sớm ở đây có mức giá bán khoảng 50.000 đồng/kg.
Là doanh nghiệp chuyên xuất khẩu nông sản đến các thị trường khó tính, bà Ngô Thị Thu Hồng - Tổng giám đốc Công ty Ameii Việt Nam - cho hay, năm nay, thị trường có nhiều tín hiệu tích cực. Hiện, doanh nghiệp đã nhận được rất nhiều đơn hàng từ các thị trường, trong đó có thị trường truyền thống của doanh nghiệp như Nhật Bản, EU, Australia và một số thị trường mới thuộc khu vực Trung Đông, Singapore, Malaysia…
Đến giờ, Ameii đã nhận đơn hàng "full" công suất của các nhà máy. Ngoài xuất khẩu, doanh nghiệp cũng đẩy mạnh tiêu thụ vải thiều chất lượng cao ngay tại thị trường trong nước, với tỷ lệ khoảng 20%. Đây là thị trường rất tiềm năng phục vụ nhu cầu làm quà tặng, nhập hàng của các cửa hàng trái cây sạch,