Giá thép hôm nay 21/4: Giá thép trong nước giảm sâu đến 1.1 triệu đồng/tấn
Thép trong nước giảm lần thứ 3 liên tiếp
Giá thép hôm nay 21/4 ghi nhận nhiều thương hiệu thông báo giảm giá thép xây dựng với mức giảm từ 130.000 - 1,12 triệu đồng/tấn.
Đây đã là phiên giảm thứ 3 liên tiếp từ 8/4 đến nay, sau khi thép trong nước đã có phiên tăng liên tiếp từ đầu năm.
Theo SteelOnline, Hòa Phát miền Bắc giảm 200.000 đồng/tấn đối với thép cuộn CB240 xuống còn 15 triệu đồng/tấn, loại D10 CB300 giảm 130.000 đồng/tấn xuống còn 15,45 triệu đồng/tấn. Cả hai loại giảm quanh mức 1%.
Hòa Phát khu vực miền Trung giảm 200.000 đồng/tấn với thép cuộn CB240 xuống 14,95 triệu đồng/tấn và giảm 130.000 đồng/tấn với loại D10 CB300 xuống 15,35 triệu đồng/tấn. Tại khu vực miền Nam, Hòa Phát giảm 170.000 đồng/tấn loại thép cuộn và 220.000 đồng/tấn với thép cây.
Thép Việt Ý giảm 300.000 đồng/tấn đối với thép cuộn CB240 xuống còn 15 triệu đồng/tấn và thép cây giảm 150.000 đồng/tấn xuống còn 15,25 triệu đồng/tấn, tương đương mức giảm lần lượt 1-2%.
Với thương hiệu Việt Đức, hai loại trên lần lượt giảm 200.000 đồng/tấn và 250.000 đồng/tấn xuống còn 14,95 triệu đồng/tấn và 15,35 triệu đồng/tấn.
Pomina Miền Trung giảm 1,12 triệu đồng/tấn đối với thép cuộn CB240 xuống còn 15,81 triệu đồng/tấn, tương đương mức giảm 6,6%. Loại thép cây D10 CB300 giảm 1,02 triệu đồng/tấn, tương đương 6%, xuống còn 15,86 triệu đồng/tấn.
Kyoei giảm 300.000 đồng/tấn đối với thép cuộn và 410.000 đồng/tấn đối với thép cây. Sau khi giảm, giá hai sản phẩm trên còn lần lượt là 14,98 triệu đồng/tấn và 15,38 triệu đồng/tấn.
Thép Miền Nam ghi nhận mức giảm 510.000 đồng/tấn đối với thép cuộn và 610.000 đồng/tấn đối với thép cây, tương đương giảm lần lượt 3,2-4%. Sau điều chỉnh, thép cuộn còn 15,22 triệu đồng/tấn và 15,43 triệu đồng/tấn.
Giá hiện tại của Việt Nhật là 15,12 triệu đồng/tấn đối với thép cây và 14,92 triệu đồng/tấn đối với thép cuộn, mức giảm lần lượt là 510.000 đồng/tấn và 660.000 đồng/tấn, tương đương giảm 3-4%.
Như vậy, giá thép của nhiều thương hiệu trong nước giảm ba lần liên tiếp sau 5 lần tăng. Lần giảm gần đây nhất là 12/4. Thép cuộn của Hòa Phát miền Bắc hiện thấp hơn đầu năm 20.000 đồng/tấn, còn thép cây cao hơn 530.000 đồng/tấn.
Sau 3 lần giảm liên tiếp, Hòa Phát miền Bắc ghi nhận tổng mức giảm là 960.000 đồng/tấn đối với thép cuộn, tương đương 6%. Đối với thép cây, tổng mức giảm là 540.000 đồng/tấn, tương đương 3,3%. Khác với các thương hiệu khác, Pomina giảm giá sản phẩm hai lần. Tổng mức giảm đối với cả thép cuộn và thép cây của Pomina quanh mức 10%.
Tại thị trường Trung Quốc, giá thép cây ngày 19/4 là 4.013 Nhân dân tệ/tấn (582 USD/tấn), thấp hơn đầu năm khoảng 1%. Còn cuộn cán nóng là 4.276 Nhân dân tệ/tấn (621 USD/tấn), tăng 1% so với đầu năm.
Diễn biến giảm của giá thép trong nước thời gian gần đây đúng như với nhận định của Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA). VSA cho rằng, giá thép có thể sẽ còn giảm tiếp trong thời gian tới do giá nguyên vật liệu đi xuống.
Giá thép xây dựng giảm theo xu hướng của thế giới trong bối cảnh nhu cầu tiêu thụ thép yếu và không ổn định, các kỳ vọng về tác động tích cực từ thị trường thép Trung Quốc tới thị trường thép thế giới đã không diễn ra như mong đợi.
VSA đánh giá, giá phôi thép và nguyên vật liệu giảm là lý do để các doanh nghiệp sản xuất thép điều chỉnh giảm giá bán thép thành phẩm cho phù hợp với chi phí đầu vào. Ngoài việc giảm giá, nhiều nhà máy thông báo bảo lãnh giá nên trong trường hợp giá nguyên vật liệu chính cho sản xuất như thép phế phôi thép tiếp tục đi xuống, giá thép xây dựng có thể sẽ giảm nữa.
Giá heo hơi hôm nay 21/4: Biến động trái chiều 1.000 - 2.000 đồng/kg
Giá heo hơi hôm nay 21/4 đi ngang tại khu vực miền Bắc; tăng - giảm 1.000 - 2.000 đồng/kg tại khu vực miền Trung – Tây Nguyên và khu vực miền Nam.
Tại khu vực miền Bắc, giá heo hơi hôm nay không ghi nhận biến động mới về giá và dao động trong khoảng 52.000 - 55.000 đồng/kg. Hiện tại, mức giá cao nhất trong khu vực là 55.000 đồng/kg, tiếp tục được ghi nhận ở tỉnh Thái Bình. Thấp hơn một giá, tại Hưng Yên, giá heo hơi tại đang được thương lái thu mua ở mức 54.000 đồng/kg. Thương lái tại các tỉnh thành còn lại vẫn đang thu mua heo hơi ổn định trong khoảng 52.000 - 53.000 đồng/kg.
Tại khu vực miền Trung - Tây Nguyên, giá heo hơi hôm nay tăng nhẹ và dao động trong khoảng 52.000 - 55.000 đồng/kg. Cụ thể, sau khi cùng tăng 1.000 đồng/kg, giá heo hơi hôm nay tại hai tỉnh Khánh Hòa và Lâm Đồng lần lượt điều chỉnh lên mức tương ứng là 52.000 đồng/kg và 55.000 đồng/kg. Các tỉnh thành còn lại không ghi nhận biến động mới về giá.
Tại khu vực miền Nam, giá heo hơi hôm nay biến động trái chiều từ 1.000 - 2.000 đồng/kg và dao động trong khoảng 51.000 - 55.000 đồng/kg. Theo đó, sau khi cùng tăng 1.000 đồng/kg, giá heo hơi tại Vũng Tàu và Bến Tre lần lượt được điều chỉnh lên mức tương ứng là 54.000 đồng/kg và 55.000 đồng/kg. Ngược lại, sau khi giảm nhẹ một giá, thương lái tại tỉnh Sóc Trăng đang thu mua heo hơi với giá 51.000 đồng/kg, đây là mức thấp nhất khu vực. Tương tự, tỉnh Cà Mau điều chỉnh giảm 2.000 đồng/kg xuống còn 53.000 đồng/kg. Các địa phương khác không ghi nhận sự biến động về giá.
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, nhập khẩu ngô trong quý I/2023 đạt gần 2,19 triệu tấn, trị giá trên 738,5 triệu USD, giá trung bình 337,6 USD/tấn, tăng 4,8% về lượng, tăng 9% kim ngạch và tăng 4% về giá so với quý I/2022. Trong đó, riêng tháng 3/2023 đạt 767.359 tấn, tương đương 260,65 triệu USD, giá trung bình 339,7 USD/tấn, tăng trên 20% cả về lượng và kim ngạch so với tháng 2/2023, giá cũng tăng 0,6%; so với tháng 3/2022 thì tăng mạnh 48,8% về lượng, tăng 50,4% về kim ngạch và tăng 1,1% về giá.
Quý I/2023 lượng lúa mì nhập khẩu của cả nước đạt 1,21 triệu tấn, tương đương trên 444,71 triệu USD, tăng 14,8% về khối lượng, tăng 15,8% về kim ngạch so với quý I/2022. Quý I/2023 cả nước nhập khẩu 498.647 tấn đậu tương, trị giá gần 346,58 triệu USD, giá trung bình 695 USD/tấn.
Giá lúa gạo hôm nay 21/4: Giá lúa tiếp đà tăng
Giá lúa gạo hôm nay 21/4 tại Đồng bằng sông Cửu Long điều chỉnh trái chiều giữa lúa và gạo. Theo đó, giá lúa tăng 100 đồng/kg trong khi giá gạo tiếp tục đà giảm
Giá lúa gạo hôm nay 21/4 tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long điều chỉnh tăng với lúa OM 18. Theo đó, giá lúa OM 18 đang được thương lái thu mua ở mức 6.500 – 6.600 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg.
Với các chủng loại còn lại, giá đi ngang. Cụ thể, lúa Nếp tươi An Giang 6.000 – 6.200 đồng/kg; Đài Thơm 8 đang được thương lái thu mua ở mức 6.800 – 7.000 đồng/kg; lúa IR 504 đang được thương lái thu mua tại ruộng ở mức 6.200 – 6.400 đồng/kg; Nàng hoa 9 ở mức 6.400 – 6.600 đồng/kg; OM 5451 duy trì ở mức 6.400 – 6.500 đồng/kg; lúa OM 18 ở mức 6.600 – 6.800 đồng/kg; Nếp khô Long An 9.000 – 9.200 đồng/kg, nếp khô An Giang giá dao động 8.400 – 8.600 đồng/kg và lúa IR 504 khô duy trì ở mức 6.500 đồng/kg; nếp tươi Long An đứng ở mức 6.500 – 6.700 đồng/kg.
Với mặt hàng gạo, giá gạo nguyên liệu, thành phẩm tiếp tục xu hướng giảm. Theo đó, giá gạo nguyên liệu giảm 50 đồng/kg xuống mức 9.400 đồng/kg. Tương tự, giá gạo thành phẩm cũng giảm 50 đồng/kg xuống còn 10.600 – 10.650 đồng/kg.
Với mặt hàng phụ phẩm, giá tấm IR 504 dao động quanh mốc 9.200 đồng/kg. Trong khi đó, cám khô giảm 100 đồng/kg xuống còn 7.350 đồng/kg.
Tại chợ lẻ, giá gạo duy trì ổn định sau phiên điều chỉnh. Theo đó, gạo thường còn 11.000 – 12.000 đồng/kg; gạo thơm Jasmine 14.000 – 15.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 15.000 đồng/kg; nếp ruột 16.000 – 18.000 đồng/kg; Gạo Nàng Nhen 22.000 đồng/kg; Gạo trắng thông dụng 14.500 đồng/kg; Nàng Hoa 18.500 đồng/kg; Sóc Thái 18.000 đồng/kg; Gạo thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg; Gạo Nhật 22.000 đồng/kg; Cám 7.500 – 8.000 đồng/kg; Gạo thơm Thái hạt dài duy trì 18.000 – 19.000 đồng/kg và Hương Lài 19.000 đồng/kg.
Theo các doanh nghiệp, hôm nay lượng gạo về ít, các bến vắng gạo. Giá gạo bình ổn so với hôm qua. Giá lúa Đông Xuân và Hè Thu các loại vẫn bình ổn, neo ở mức cao. Lúa tươi dần cạn nguồn. Nhu cầu mua lúa khô chưa nhiều, nông dân đòi giá cao. Nguồn lúa Campuchia bắt đầu về lại, giá lúa cao, giao dịch khá.
Trên thị trường thế giới, giá chào bán gạo xuất khẩu của Việt Nam hôm nay chững lại và đi ngang sau phiên điều chỉnh tăng. Theo đó, gạo 5% tấm đang ở mức 473 USD/tấn; gạo 25% tấm 453 USD/tấn.
Theo các doanh nghiệp xuất khẩu gạo sẽ tiếp tục thuận lợi trong thời gian tới do nhu cầu từ các thị trường lớn đang tăng lên. Bên cạnh đó, giá gạo cũng được kỳ vọng sẽ tăng ở cả trong nước và trên thị trường xuất khẩu.
Với thị trường Trung Quốc, sau khi mở cửa trở lại nhu cầu gạo nếp và các loại gạo chất lượng cao của nước này tăng rất mạnh.
Trong khi đó, nhiều dự báo cho thấy hiện tượng thời tiết El Nino sẽ xuất hiện vào nửa cuối năm 2023, làm gia tăng rủi ro về nguồn cung lúa gạo tại khu vực châu Á. Điều này khiến các quốc gia trong khu vực như Philippines hay Indonesia phải tăng cường kho dự trữ quốc gia.

Nguồn: VITIC/Baocongthuong