Năng lượng: Giá dầu giảm 6%, tương đương hơn 4 USD/thùng, do Israel trong cuộc trả đũa vào Iran hôm thứ Bảy dường như né tránh các cơ sở dầu mỏ và hạt nhân của Iran, do đó không làm gián đoạn nguồn cung cấp năng lượng.
Kết thúc phiên, dầu Brent giảm 4,63 USD tương đương 6,09%, xuống 71,42 USD/thùng; dầu WTI kỳ hạn của Mỹ giảm 4,40 USD, hay 6,13%, xuống 67,38 USD/thùng. Cả 2 loại dầu đều chạm mức thấp nhất kể từ ngày 1/10/2024 khi mở cửa.
Tuần trước, giá cả hai loại dầu đã tăng 4% và liên tục biến động do sự không chắc chắn về cuộc bầu cử Mỹ sắp diễn ra và dự kiến phản ứng của Israel đối với cuộc tấn công tên lửa của Iran vào ngày 1/10. Tuy nhiên, Israel đã không nhằm vào các cơ sở lọc dầu và hạt nhân nên điều đáng lo sợ đã không xảy ra.
Ngân hàng Citi đã giảm dự báo giá dầu Brent trong ba tháng tới xuống 70 USD/thùng từ 74 USD/thùng dự báo trước đây, trong đó hạ mức dự đoán về phí bảo hiểm rủi ro trong thời gian tới.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các đồng minh trong OPEC+ tháng trước đã giữ nguyên chính sách sản lượng dầu, bao gồm kế hoạch bắt đầu tăng sản lượng từ tháng 12/2024. Nhóm sẽ nhóm họp vào ngày 1/12/2024 trước cuộc họp đầy đủ của OPEC+.
Nhà phân tích Matt Portillo của Tudor, Pickering Holt cho biết dầu WTI có thể giảm nhiều trong năm tới.
"Nếu không có sự bùng phát xung đột ở Trung Đông, chúng tôi dự đoán giá dầu WTI năm 2025 vẫn là 65 đô la một thùng trong bối cảnh OPEC+ không cho thấy sự hạn chế đáng kể trong việc khôi phục sản xuất trở lại", ông Portillo cho biết.
Tuy nhiên, căng thẳng vẫn ở mức cao sau cuộc tấn công và người phát ngôn Bộ Ngoại giao Iran Esmaeil Baghaei hôm thứ Hai cho biết Iran sẽ "sử dụng mọi công cụ có sẵn" để đáp trả cuộc tấn công vào cuối tuần của Israel,.
Kim loại quý: Sau mấy phiên liên tiếp tăng, giá vàng phiên thứ Hai giảm khi lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ và đồng USD tăng, trong khi các nhà đầu tư chờ đợi một loạt dữ liệu kinh tế của Mỹ sẽ công bố trong tuần này để biết tín hiệu về triển vọng lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang.
Kết thúc phiên giao dịch, vàng giao ngay giảm 0,2% xuống còn 2.743,31 USD/ounce, thứ Tư tuần trước giá đạt kỷ lục cao, 2.758,37 USD. Vàng giao sau vững ở mức 2.755,9 USD.
Lợi suất trái phiếu kho bạc chuẩn kỳ hạn 10 năm US10YT=RR tăng lên mức cao nhất trong ba Chỉ số đồng USD đang trên đà kết thúc tháng tăng mạnh nhất kể từ tháng 4 năm 2022, khiến vàng kém hấp dẫn hơn đối với người mua ở nước ngoài.
"Tôi nghĩ mục tiêu 2.800 USD chắc chắn có thể đạt được trong tuần này. Chúng tôi dự đoán cuộc bầu cử thực sự đang cản trở nhu cầu bán ra và do đó, bất kỳ chất xúc tác nào cho hoạt động mua vào đều có khả năng có tác động lớn", Daniel Ghali, chiến lược gia hàng hóa tại TD Securities cho biết.
Khi cuộc bầu cử Mỹ ngày 5 tháng 11 đang đến gần, Phó Tổng thống Kamala Harris và cựu Tổng thống Donald Trump đang bị cuốn vào cuộc chiến khốc liệt để giành chiến thắng ở một số tiểu bang cạnh tranh hơn.
Thị trường cũng đang chờ đợi một loạt dữ liệu của Mỹ trong tuần này, bao gồm dữ liệu việc làm của Bộ Lao động vào thứ Tư, Chi tiêu tiêu dùng cá nhân vào thứ Năm và báo cáo bảng lương thứ Sáu.
"Vàng vẫn đang trong chế độ mua khi giá giảm và trong một số nhà đầu tư tiềm năng đang tìm kiếm cơ hội mua vào khi mức giảm vượt quá 200 đô la", nhà phân tích Rhona O'Connell của StoneX cho biết trong một lưu ý.
"Mặc dù một trong những yếu tố chính đẩy giá vàng tăng là rủi ro địa chính trị trong năm nay, còn có vô số cuộc bầu cử với hơn một nửa cử tri thế giới có cơ hội bỏ phiếu, nhưng sự bất ổn sẽ không biến mất chỉ vì cuộc bầu cử đã kết thúc".
Giá bạc giao ngay kết thúc phiên tăng 0,2% lên 33,75 USD/ounce và bạch kim tăng 1,4% lên 1.037,5 đô la.
Giá palladium XPD= tăng 2,1% lên 1.217,98 đô la, sau khi đạt mức cao nhất trong 10 tháng vào đầu phiên do lo ngại về lệnh trừng phạt đối với nhà sản xuất hàng đầu là Nga.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm khi dữ liệu của Trung Quốc cho thấy triển vọng nhu cầu kém làm tăng thêm sự thất vọng về hiệu quả của các biện pháp kích thích kinh tế mới công bố gần đây, từ đó đè nặng lên tâm lý các nhà giao dịch.
Kết thúc phiên, đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 0,5% xuống 9.551 USD/tấn. Giá đồng trong vài tuần qua nhìn chung giao dịch trong phạm vi hẹp, tăng/giảm 400 USD/tấn.
Lợi nhuận công nghiệp của Trung Quốc đã giảm mạnh vào tháng 9, ghi nhận mức giảm hàng tháng lớn nhất trong năm, do các yếu tố bao gồm nhu cầu yếu và giá sản xuất giảm mạnh.
"Đây chỉ là dữ liệu mới nhất trong một loạt dữ liệu kém từ Trung Quốc. Chính phủ dường như không thể ngăn chặn (sự suy giảm kinh tế)", một nhà giao dịch kim loại cho biết.
Các nhà giao dịch cho biết họ sẽ theo dõi chặt chẽ tiến trình cuộc họp của cơ quan lập pháp hàng đầu của Trung Quốc từ ngày 4 đến ngày 8 tháng 11. Các manh mối tiếp theo về nhu cầu kim loại công nghiệp của Trung Quốc sẽ xuất hiện vào cuối tuần này, đó là kết quả khảo sát về chỉ số quản lý sức mua trong lĩnh vvực sản xuất, vốn đã suy giảm trong nhiều tháng.
Ngoài ra, thị trường cũng theo dõi kết quả của cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ vào ngày 5 tháng 11, nếu Donald Trump thắng cử có thể áp thuế quan rộng rãi đối với hàng nhập khẩu.
Về các kim loại cơ bản khác, giá kẽm giảm vào đầu phiên do lượng tồn trữ tăng ngày thứ ba liên tiếp lên 247.075 tấn, làm giảm bớt lo ngại về tình trạng thiếu hụt. Kẽm kỳ hạn ba tháng tăng 1,3% lên 3.145 đô la một tấn, tăng hơn 15% từ đầu năm đến nay
Giá nhôm giảm 1,1% xuống 2.648 USD, chì giảm 0,9% xuống 2.028 USD, giá thiếc tăng 0,1% lên 31.350 USD và niken mất 1,2% xuống 15.975 USD.
Giá quặng sắt trên thị trường Trung QUốc tăng lên mức cao nhất hơn một tuần khi các nhà giao dịch thép kỳ vọng mới về việc Trung Quốc sẽ tăng cường kích thích kinh tế hơn nữa. Điều này át đi lo ngại về sự phục hồi kinh tế cũng như nhu cầu thép chậm chạp ở nước này. Tợi nhuận lĩnh vực công nghiệp tháng 9 của Trung Quốc đã lao dốc, ghi nhận mức giảm hàng tháng lớn nhất trong năm nay, do các yếu tố như nhu cầu không đủ và giá sản xuất giảm mạnh.
Hợp đồng quặng sắt giao tháng 1/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc đã kết thúc phiên tăng 2,35% lên 783,5 nhân dân tệ (109,92 USD)/tấn, đầu phiên có lúc giá tăng 3,33% lên 793,0 nhân dân tệ, cao nhất kể từ ngày 17/10. Quặng sắt kỳ hạn tháng 12/2024 trên Sàn giao dịch Singapore cao hơn 1,73% ở mức 103,05 USD/tấn. Giá thép trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải tiếp tục tăng, với thép thanh tăng 4,12%, thép cây và cuộn dây cán nóng tăng khoảng 2,65% và thép không gỉ tăng 0,4%.
Atilla Widnell, giám đốc điều hành tại Navigate Commodities cho biết thị trường hiện đang kỳ vọng trong kỳ họp chính sách sắp tới Trung Quốc sẽ công bố các gói kích thích tiếp theo. Trong khi nhu cầu thép từ hạ nguồn vẫn ảm đạm, giá các sản phẩm thép trên thị trường Trung Quốc đang hồi phục nhờ những kỳ vọng này.
Nông sản: Giá đậu tương và ngô Mỹ giảm do giá dầu thô giảm và đang vào vụ thu hoạch cao điểm. Giá lúa mì cũng giảm do có mưa làm giảm bớt một số lo ngại hạn hán ở đồng bằng trồng lúa mì của Mỹ và giá xuất khẩu của Nga giảm.
Kết thúc phiên, đậu tương kỳ hạn tương lai trên Sàn giao dịch Chicago giảm 8-1/2 cent xuống 9,79-1/4 USD/bushel vào lúc 1654 GMT. Giá ngô CBOT giảm 4 cent xuống 4,11-1/4 USD/bushel, trong khi lúa mì giảm 7 cent xuống 5,62 USD/bushel.
Giá lúa mì Nga 12,5% protein, giao vào tháng 11/2024, FOB đạt 232 USD/tấn vào cuối tuần trước, giảm 2 USD, theo Dmitry Rylko, người đứng đầu công ty tư vấn IKAR.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2025 giảm 0,18 cent, tương đương 0,8%, xuống 21,96 cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 12 /2024 giảm 1,1% xuống 560,20 USD/tấn.
Các đại lý cho biết sản lượng mía tại Trung Nam Brazil từ đầu vụ đến nay đạt mức cao kỷ lục thứ 2 trong lịch sử, nhưng dự báo thị trường sẽ tiếp tục phụ thuộc vào tiến triền sản lượng của nước này. Tập đoàn công nghiệp đường Unica cho biết rằng 539 triệu tấn mía đã được ép tính đến ngày 16 tháng 10, tăng 2% so với mùa trước.
Trong khi đó, nhà giao dịch Wilmar cho biết sản lượng ethanol tăng ở Ấn Độ sẽ ngăn cản nước này xuất khẩu đường trong mùa vụ 2024/25.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2025 tăng 91 USD, tương đương 2,1%, lên 4.502 USD/tấn, phục hồi từ mức thấp nhất 2-1/2 tháng hôm thứ Sáu tuần trước là 4.296 USD. Cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 tăng 1,6% lên 2,5235 USD/lb.
Các đại lý lưu ý lo ngại về mưa lớn dự kiến cho Tây Nguyên ở Việt Nam có thể làm gián đoạn vụ thu hoạch đang đến gần. Tuy nhiên, tốc độ xuất khẩu robusta mạnh mẽ của Brazil đã giúp giảm bớt lo ngại về nguồn cung.
Giá cao trên thị trường Nhật Bản giảm phiên thứ tư liên tiếp do giá dầu thế giới giảm, mặc dù đà giảm được hạn chế bởi đồng yên yếu đi.
Trên sàn Osaka, hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 4/2025 đóng cửa giảm 7 yên, tương đương 1,87%, xuống 367 yên (2,39 USD)/kg; cao su kỳ hạn tháng 1/2025 trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (SHFE) giảm 125 nhân dân tệ, tương đương 0,69%, xuống 17.910 nhân dân tệ (2.512,56 USD)/tấn; tuy nhiên cao su tháng 12/2024 trên sàn giao dịch Singapore tăng 0,2% lên 194,9 US cent/kg.
Cao su thiên nhiên thường biến động theo sự điều chỉnh của giá dầu vì cạnh tranh thị phần với cao su tổng hợp, được làm từ dầu thô. Hợp đồng cao su butadien giao tháng 11 trên sàn SHFE lúc đóng cửa giảm 110 nhân dân tệ, tương đương 0,73%, xuống 14.950 nhân dân tệ (2.097,30 USD)/tấn.
Cơ quan khí tượng của nhà sản xuất cao su hàng đầu Thái Lan cảnh báo về mưa lớn đến rất lớn có thể gây ra lũ quét từ ngày 28/10 đến ngày 3/11.
Cập nhật giá hàng hóa:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
67,74
|
+0,36
|
+0,53%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
71,78
|
+0,36
|
+0,50%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
197,23
|
+0,59
|
+0,30%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,27
|
-0,04
|
-1,52%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
213,24
|
+0,38
|
+0,18%
|
Vàng (Comex)
|
USD/ounce
|
2.767,10
|
+11,20
|
+0,41%
|
Vàng giao ngay
|
USD/ounce
|
2.756,50
|
+14,04
|
+0,51%
|
Bạc (Comex)
|
USD/ounce
|
34,22
|
+0,21
|
+0,63%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/ounce
|
1.048,00
|
+14,56
|
+1,41%
|
Đồng (Comex)
|
US cent/lb
|
436,40
|
+0,15
|
+0,03%
|
Đồng (LME)
|
USD/tấn
|
9.541,50
|
-61,00
|
-0,64%
|
Nhôm (LME)
|
USD/tấn
|
2.645,50
|
-32,00
|
-1,20%
|
Kẽm (LME)
|
USD/tấn
|
3.139,00
|
+37,00
|
+1,19%
|
Thiếc (LME)
|
USD/tấn
|
31.429,00
|
+104,00
|
+0,33%
|
Ngô (CBOT)
|
US cent/bushel
|
410,50
|
-0,25
|
-0,06%
|
Lúa mì (CBOT)
|
US cent/bushel
|
559,75
|
+1,00
|
+0,18%
|
Lúa mạch (CBOT)
|
US cent/bushel
|
378,50
|
-1,25
|
-0,33%
|
Gạo thô (CBOT)
|
USD/cwt
|
15,05
|
0,00
|
-0,03%
|
Đậu tương (CBOT)
|
US cent/bushel
|
988,00
|
+2,00
|
+0,20%
|
Khô đậu tương (CBOT)
|
USD/tấn
|
304,60
|
-0,20
|
-0,07%
|
Dầu đậu tương (CBOT)
|
US cent/lb
|
42,91
|
+0,22
|
+0,52%
|
Hạt cải (ICE)
|
CAD/tấn
|
641,20
|
+1,50
|
+0,23%
|
Cacao (ICE)
|
USD/tấn
|
6.490,00
|
+180,00
|
+2,85%
|
Cà phê (ICE)
|
US cent/lb
|
252,35
|
+3,95
|
+1,59%
|
Đường thô (ICE)
|
US cent/lb
|
21,96
|
-0,18
|
-0,81%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)
|
US cent/lb
|
491,45
|
-2,85
|
-0,58%
|
Bông (ICE)
|
US cent/lb
|
70,44
|
+0,08
|
+0,11%
|
Lông cừu (ASX)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ (CME)
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
Cao su Singapore
|
US cent/kg
|
197,00
|
-0,30
|
-0,15%
|
Ethanol (CME)
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|