Năng lượng: Giá dầu giảm trong tuần
Giá dầu giảm hơn 2% vào thứ Sáu do nhà đầu tư hoài nghi về mức độ cắt giảm nguồn cung của OPEC + và lo ngại về hoạt động sản xuất toàn cầu chậm chạp.
Dầu thô Brent kỳ hạn giao tháng 2 kết thúc phiên này giảm 1,98 USD, tương đương 2,45%, xuống 78,88 USD/thùng. Hợp đồng dầu ngọt nhe (WTI) của Mỹ giảm 1,89 USD, tương đương 2,49%, xuống 74,07 USD/thùng.
Tính chung cả tuần, giá dầu Brent giảm khoảng 2,1%, trong khi dầu WTI giảm hơn 1,9%.
Các nhà sản xuất OPEC+ hôm thứ Năm đã đồng ý loại bỏ khoảng 2,2 triệu thùng dầu mỗi ngày (bpd) khỏi thị trường toàn cầu trong quý đầu tiên của năm tới, với tổng số bao gồm cả việc gia hạn cắt giảm tự nguyện hiện tại của Saudi Arabia và 1,3 triệu thùng/ngày của Nga.
Nhà phân tích Craig Erlam của OANDA cho biết, các nhà giao dịch xem thông báo này với thái độ hoài nghi. “(Có vẻ như các nhà giao dịch không mua rằng các thành viên sẽ tuân thủ hoặc không coi điều đó là đủ”, ông Erlam nói.
OPEC+, nơi cung cấp hơn 40% sản lượng dầu của thế giới, đang giảm sản lượng sau khi giá giảm từ khoảng 98 USD/thùng vào cuối tháng 9 do lo ngại về tác động của tăng trưởng kinh tế chậm chạp đối với nhu cầu nhiên liệu.
Nhà phân tích John Evans của PVM cho biết, việc cắt giảm "sẽ không ngăn được đám mây lộn xộn cuồn cuộn mà thị trường dầu mỏ sẽ phải mất hàng tuần, hàng tháng để tìm hiểu và chỉ khi dữ liệu tự báo cáo thực sự đáng tin cậy".
Việc cắt giảm được OPEC+ đồng ý vào thứ Năm là tự nguyện, do đó không có sự sửa đổi chung nào về các mục tiêu sản xuất của OPEC+. Bản chất tự nguyện của việc cắt giảm dẫn đến một số hoài nghi về việc liệu các nhà sản xuất có thực hiện đầy đủ cam kết hay không và việc cắt giảm sẽ được đo lường dựa trên cơ sở nào.
Tại Mỹ, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Jerome Powell hôm thứ Sáu ch biết ngân hàng trung ương sẽ điều chỉnh lãi suất một cách "thận trọng" vì rủi ro "thắt chặt quá mức và thắt chặt quá mức đang trở nên cân bằng".
Theo một cuộc khảo sát, ngành sản xuất của Mỹ vẫn trầm lắng và việc làm tại các nhà máy giảm trong tháng 11. Các cuộc khảo sát cho thấy các nhà đầu tư đang theo dõi thận trọng hoạt động sản xuất toàn cầu, vốn vẫn yếu trong tháng 11 do nhu cầu kém.
Về phía nguồn cung, Công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes cho biết số giàn khoan dầu của Mỹ đã tăng 5 giàn lên 505 giàn trong tuần này, cao nhất kể từ tháng 9.
Kim loại quý: Giá vàng tăng trong tuần
Giá vàng tăng lên mức cao nhất mọi thời đại vào thứ Sáu sau khi nhận xét từ Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Jerome Powell làm tăng niềm tin của các nhà giao dịch rằng ngân hàng trung ương Mỹ đã hoàn tất việc thắt chặt chính sách tiền tệ và có thể cắt giảm lãi suất bắt đầu từ tháng 3 năm tới.
Vàng giao ngay kết thúc phiên này tăng 1,6% lên 2.069,10 USD/ounce; tính chung cả tuần giá tăng 3,4%, có lúc đạt 2.075,09 USD/ounce, vượt mức kỷ lục cao trước đó là 2.072,49 USD đạt được vào năm 2020. Giá vàng tương Mỹ kỳ hạn tháng 2/2024 cũng tăng 1,6% ở lên kỷ lục 2.089,7 USD.
Giá bạc phiên này tăng 0,9% lên mức cao nhất trong hơn sáu tháng, là 25,47 USD/ounce, thiết lập mức tăng hàng tuần thứ ba liên tiếp. Giá bạch kim tăng 0,6% lên 932,44 USD và palladium giảm 0,3% xuống 1.004,92 USD.
Ông Powell cho biết "rủi ro về việc thắt chặt dưới mức và quá mức đang trở nên cân bằng hơn", nhưng Fed hiện không nghĩ đến việc hạ lãi suất.
Tai Wong, một nhà phân tích độc lập có trụ sở tại New York, cho biết: “Những nhà đầu tư vàng đang tập trung vào nhận xét của Powell rằng lãi suất nằm trong phạm vi hạn chế, điều này dẫn đến câu chuyện việc cắt giảm sẽ diễn ra sớm hơn, phớt lờ cảnh báo của ông rằng còn quá sớm để suy đoán về việc nới lỏng lãi suất”.
Các nhà giao dịch tăng tỷ lệ đặt cược về việc Fed bắt đầu cắt giảm lãi suất vào tháng 3 và lãi suất xuống dưới 4% vào cuối năm tới. Lãi suất thấp hơn làm giảm chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng – có lãi suất bằng 0.
Tuy nhiên, nhà phân tích Suki Cooper của Standard Chartered cho biết: “Giá có thể đã đi vào vùng mua quá và vàng được biết là đã định giá sớm theo kỳ vọng về chính sách tiền tệ trong hai năm qua”.
Làm tăng sức hấp dẫn của vàng thỏi là lãi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm giảm xuống mức thấp nhất trong 12 tuần và đồng đô la giảm 0,3%.
Kim loại công nghiệp: Đồng tăng trong tuần, quặng sắt giảm
Giá đồng trong phiên cuối tuần tăng lên mức cao gần bốn tháng, kết thúc tuần tăng thứ ba liên tiếp, do dữ liệu từ Trung Quốc tốt hơn mong đợi, nguồn cung thắt chặt, đồng USD yếu và một số lý do khác.
Đồng giao sau ba tháng trên Sàn giao dịch kim loại London tăng 2,1% lên 8.638 USD/tấn, mức cao nhất kể từ ngày 4 tháng 8.
Cuộc khảo sát tư nhân của Caixin cho thấy hoạt động nhà máy của Trung Quốc bất ngờ mở rộng trong tháng 11 khi đơn đặt hàng tăng, mặc dù chỉ số quản lý mua hàng (PMI) chính thức của tháng 11 giảm.
Nitesh Shah, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu hàng hóa và kinh tế vĩ mô tại WisdomTree ở Châu Âu, cho biết: “Mặc dù dữ liệu PMI chính thức cho thấy ngành công nghiệp Trung Quốc vẫn đang suy giảm, nhưng dữ liệu Caixin ở mức trên 50 cho thấy rằng biện pháp kích thích mà chính phủ Trung Quốc đưa ra đang phát huy tác dụng”.
Cung cấp thêm động lực hỗ trợ cho đồng và các kim loại được định giá bằng đồng đô la khác, đồng tiền Mỹ giảm vào thứ Sáu khi Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Jerome Powell đưa ra quan điểm thận trọng về các động thái lãi suất tiếp theo, cho thấy ngân hàng trung ương Mỹ có thể đã hoàn thành chu kỳ thắt chặt của mình.
Ewa Manthey, chiến lược gia hàng hóa tại ING, cho biết: “Hướng tới năm 2024, giá đồng sẽ được hỗ trợ trong bối cảnh đồng đô la Mỹ yếu đi nhờ chính sách tiền tệ của Fed Mỹ nới lỏng”.
Những lo ngại về nguồn cung thắt chặt từ Panama và các dấu hiệu suy giảm nguồn cung cấp đồng là những yếu tố khác đằng sau sự tăng giá của kim loại này.
Tồn kho đồng trong các kho do Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải giám sát đã giảm 27% trong tuần này, trong khi tồn kho có bảo đảm hàng ngày trong các kho đã đăng ký với sàn LME giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 9.
Trong số các kim loại cơ bản khác giao dịch trên sàn LME, giá nhôm phiên thứ Sáu tăng 0,7% lên 2.207,5 USD/tấn, thiếc tăng 2,6% lên 23.850 USD trong khi niken C tăng 2,4% lên 17.050 USD. Giá kẽm tăng 2,1% lên 2.528 USD và chì tăng 0,2% lên 2.128 USD.
Giá quặng sắt kỳ hạn trên sàn Đại Liên ghi nhận tuần giảm đầu tiên trong 7 tuần. Theo đó, hợp đồng quặng sát giao tháng 1 tăng 2% lên 975,5 nhân dân tệ (136,55 USD)/tấn. Tính chung cả tuần, giá giảm 0,12%. Trên Sàn giao dịch Singapore, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1 tăng 0,9% lên 129,58 USD/tấn; tính chung cả tuần giảm 2,1%, lần giảm đầu tiên sau 5 tuần tăng liên tiếp.
Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc cho biết hôm thứ Năm rằng họ sẽ tiếp tục tăng cường giám sát hợp đồng quặng sắt kỳ hạn và kiên quyết duy trì hoạt động an toàn và ổn định của thị trường.
Một cuộc khảo sát tư nhân cho thấy hôm thứ Sáu cho thấy hoạt động nhà máy của Trung Quốc bất ngờ mở rộng trong tháng 11, do số lượng đơn đặt hàng tăng. Tuy nhiên, nhu cầu bên ngoài trì trệ tiếp tục đè nặng lên các nhà sản xuất.
Nông sản: Giá ngô và lúa mì tăng trong tuần, đậu tương cao su và đường giảm
Giá đậu Mỹ giảm vào thứ Sáu do dự báo thời tiết ở miền bắc Brazil sẽ có mưa giải hạn. Giá ngô và lúa mì đều kết thúc phiên này tăng khi các nhà giao dịch tiếp tục chốt lệnh bán ở cả hai thị trường. Cụ thể, giá đậu tương giảm 17-3/4 US cent, đóng cửa ở mức 13,25 USD/bushel, tính chung cả tuần giảm 0,4%.
Giá lúa mì phiên này tăng 4-3/4 cent ở mức 6,02-3/4 USD mỗi bushel, kết thúc tuần tăng 4,4% so với thứ Sáu tuần trước. Giá ngô tăng 2 cent lên 4,84-3/4 USD/bushel, tính chung cả tuần tăng 0,4% và cao hơn 3% so với mức thấp nhất trong tuần chạm tới vào thứ Tư.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3 giảm 3,6% xuống 25,09 cent/lb sau khi thiết lập mức thấp nhất trong ba tháng là 24,95 cent. Tính chung cả tuần giá giảm 7%. Đường trắng giao cùng kỳ hạn giảm 2,8% xuống 696,80 USD/tấn.
Nhập khẩu đường Ukraine vào Liên minh châu Âu đã tăng gấp 10 lần trong mùa trước và kéo dài mức tăng vào đầu mùa giải 2023/24 hiện tại, gây bất lợi cho Brazil, quốc gia đang trên đà mất đi vị trí dẫn đầu trong các nhà cung cấp cho khối này.
Giá cà phê Arabica kỳ hạn trên sàn giao dịch ICE đạt mức cao nhất 6 tháng vào thứ Sáu khi sự chú ý của các nhà giao dịch quay trở lại với việc tồn kho được ICE chứng nhận trượt xuống mức thấp nhất trong 24 năm.
Cà phê arabica kỳ hạn tháng 3 giảm 0,35 cent, tương đương 0,2%, xuống 1,8435 USD/lb, sau khi đạt mức cao nhất 6 tháng là 1,8825 USD. Hợp đồng này tăng 9,6% trong tuần. Cà phê Robusta kỳ hạn tháng 1 giảm 39 USD, tương đương 1,5%, xuống 2.572 USD/tấn.
Dữ liệu hôm thứ Năm cho thấy tồn kho cà phê arabica trên sàn ICE giảm xuống 224.066 bao, mức thấp nhất kể từ tháng 2 năm 1999. Ngược lại, các đại lý cho biết đợt không khí lạnh dự kiến sẽ mang lại lượng mưa cần thiết cho các khu vực sản xuất cà phê của Brazil vào cuối tuần, cải thiện triển vọng cho một vụ mùa bội thu trong mùa tới.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản phiên thứ Sáu giảm xuống mức thấp nhất trong 3 tuần, chịu áp lực bởi đồng Yên mạnh lênvà số liệu kinh tế kém ở Nhật Bản.
Hợp đồng cao su giao tháng 5 trên sàn giao dịch Osaka (OSE) giảm 6,3 yên hay 2,4%, xuống 256,7 yên (1,73 USD)/kg. Tính cả tuần, hợp đồng này giảm 2,3%, là tuần giảm thứ hai liên tiếp.
Hợp đồng cao su giao tháng 1 trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) giảm 245 nhân dân tệ hay 1,8%, xuống 13.390 nhân dân tệ (1.874,25 USD)/tấn. Hợp đồng cao su giao tháng 1 trên sàn Singapore giảm 1% xuống 144,2 US cent/kg.
Hoạt động sản xuất của Nhật Bản trong tháng 11 giảm với tốc độ nhanh nhất trong 9 tháng do nhu cầu trong nước và quốc tế trì trệ đã làm giảm lượng đặt hàng của các công ty, một cuộc khảo sát khu vực tư nhân cho thấy.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá 24/11

Giá 1/12

1/12 so với 30/11

1/12 so với 30/11 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

76,45

74,07

-1,89

-2,49%

Dầu Brent

USD/thùng

81,25

78,88

-1,98

-2,45%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

79.000,00

74.200,00

-1.600,00

-2,11%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,93

2,81

+0,01

+0,43%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

219,50

212,11

-5,47

-2,51%

Dầu đốt

US cent/gallon

278,95

266,15

-9,27

-3,37%

Dầu khí

USD/tấn

806,00

806,50

+5,00

+0,62%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

78.000,00

78.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.981,90

2.089,70

+32,50

+1,58%

Vàng TOCOM

JPY/g

9.489,00

9.765,00

+53,00

+0,55%

Bạc New York

USD/ounce

24,07

25,86

+0,20

+0,77%

Bạc TOCOM

JPY/g

115,30

120,00

0,00

0,00%

Bạch kim

USD/ounce

907,28

937,15

+7,62

+0,82%

Palađi

USD/ounce

1.062,34

1.006,13

-3,38

-0,33%

Đồng New York

US cent/lb

377,95

393,15

+8,10

+2,10%

Đồng LME

USD/tấn

8.267,00

8.610,50

+146,00

+1,72%

Nhôm LME

USD/tấn

2.207,00

2.209,00

+16,00

+0,73%

Kẽm LME

USD/tấn

2.555,00

2.509,50

+34,00

+1,37%

Thiếc LME

USD/tấn

24.852,00

23.748,00

+502,00

+2,16%

Ngô

US cent/bushel

486,25

484,75

+2,00

+0,41%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

576,25

602,75

+4,75

+0,79%

Lúa mạch

US cent/bushel

362,50

384,75

+14,75

+3,99%

Gạo thô

USD/cwt

17,39

17,18

-0,16

-0,92%

Đậu tương

US cent/bushel

1.349,25

1.325,00

-17,75

-1,32%

Khô đậu tương

USD/tấn

433,20

412,70

-11,30

-2,67%

Dầu đậu tương

US cent/lb

51,75

51,45

-0,81

-1,55%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

705,10

680,50

-19,80

-2,83%

Cacao Mỹ

USD/tấn

4.108,00

4.201,00

-76,00

-1,78%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

166,65

184,35

-0,35

-0,19%

Đường thô

US cent/lb

27,18

25,09

-0,95

-3,65%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

415,80

394,20

-6,80

-1,70%

Bông

US cent/lb

81,47

79,42

-0,64

-0,80%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

--

--

--

--

Cao su TOCOM

JPY/kg

152,50

144,80

-2,60

-1,76%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: VITIC/Vinanet (Theo Reuters, Bloomberg)