(VINANET) – Phiên giao dịch 10/9 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 11/9 giờ VN), giá hàng hóa đồng loạt sụt giảm do USD tăng giá và triển vọng nhu cầu yếu.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu thô tiếp tục giảm xuống mức thấp nhất trong vòng nhiều tháng do những dấu hiệu nhu cầu thấp làm giảm nhu cầu của các nhà đầu tư.

Giá dầu ngọt, nhẹ kỳ hạn giao tháng 10 trên sàn Nymex giảm 1,08 USD (-1,2%) xuống 91,67 USD/thùng, thấp nhất kể từ 9/1. Giá dầu Brent tháng 10 trên sàn ICE giảm 1,12 USD (-1,1%) xuống 98,04 USD/thùng, thấp nhất kể từ 17/4/2013.

Kể từ giữa tháng 6 giá dầu giảm 15% bởi giảm bớt lo ngại về sự gián đoạn nguồn cung tại Iraq trong khi nhu cầu xăng dầu có khả năng yếu.

Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) và Tổ chức các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) đều hạ dự báo tăng trưởng nhu cầu trong năm 2015 trong dự báo tăng trưởng công bố trong tuần này. EIA dự kiến công bố viễn cảnh mới nhất vào thứ Năm 11/9.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tiếp tục ở mức thấp nhấ 4 tháng do lo ngại rằng Fed tăng lãi suất sớm hơn dự kiến sau những số liệu kinh tế tích cực. Vàng giao tại New York ngay giá tăng nhẹ 4,20 USD lên 1.249,50 USD/ounce, trong khi vàng kỳ hạn giao tháng 12 giảm 3,2 USD xuống 1.245,3 USD/ounce.

Chỉ số đôla biến động đôi chút so với các đồng tiền khác trong giỏ tiền tệ, dao động quanh mức cao nhất 14 tháng đạt được hôm thứ Ba 9/9, cũng làm gia tăng áp lực lên giá vàng.

Tuy nhiên, giá vàng được hỗ trợ đôi chút từ nhu cầu vật chất tại châu Á – thị trường tiêu thụ vàng lớn nhất. Tại Ấn Độ - nước mua vàng lớn thứ 2 thế giới – Bộ trưởng Thương mại Nirmala Sitharaman cho biết, chính phủ chưa có ý định xem xét cắt giảm thuế nhập khẩu vàng.

Những người tham gia thị trường vàng sẽ theo dõi sát sao bài phát biểu của Tổng thống Barack Obama hôm thứ Tư 10/9 về chiến lược chống lại Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) tại Iraq và Syria.

Giới đầu tư dự đoán quan điểm cứng rắn về chính sách tiền tệ của Ủy ban Thị trường Mở Fed (FOMC) vào phiên họp chính sách tới đây ngày 16-17/9, sau khi nghiên cứu của Fed San Francisco hôm thứ Hai 8/9 cho thấy nhà đầu tư có thể đánh giá không đúng về thời điểm Fed có thể nâng lãi suất.

Tin tức cho thấy Nga rút 2/3 quân đội khỏi Ukraine cũng làm giảm nhu cầu tài sản trú ẩn an toàn, thắp lên hy vọng về hòa bình sau cuộc xung đột đã cướp đi sinh mạng của hơn 3.000 người.

Thị trường cao su đang trong kỳ giảm giá kéo dài do tồn kho của Trung Quốc liên tục tăng và dư cung tại Thái Lan.  Phiên vừa qua, giá cao su trên sàn Thượng Hải đã giảm 4,4% và Tokyo giảm 3%.

Tồn kho tại sàn Thượng Hải hôm 4/9 tăng 1,6% lên 166.328 tấn, cao nhất 4 tháng qua, theo số liệu của sàn Thượng Hải. Sản lượng cao su toàn cầu sẽ vượt nhu cầu 371.000 tấn trong năm 2014, theo số liệu của Tổ chức Nghiên cứu Cao su Quốc tế (IRSG). Thái Lan bắt đầu mở bán cao su dự trữ trong khi đang cố gắng giảm dư thừa bằng các chặt hạ những cây cao su già cỗi.

Trên thị trường mía đường, giá đường thô giảm xuống mức thấp nhất từ tháng 6/2010 trước đồn đoán sản lượng toàn cầu tiếp tục vượt nhu cầu.

Giá đường thô giao tháng 10 trên sàn ICE New York giảm 2,4% xuống 14,52 cent/pound, thấp nhất từ 7/6/2010. Giá đã giảm 6 phiên liên tiếp, đợt giảm dài nhất từ 27/5.

Triển vọng sản lượng của Brazil – nước sản xuất đường lớn nhất thế giới – sẽ tưng mạnh, bất chấp thời tiết khô hạn. Hiệp hội Ngành mía đường Brazil (Unica) hôm 9/9 cho biết, vùng Center-South của Brazil, vùng trồng mía đường lớn nhất, sản xuất 20,9 triệu tấn đường trong niên vụ bắt đầu từ tháng 4, tăng 4,4% so với năm trước.

Năm nay giá đường đã giảm 11% khi thị trường thế giới hướng đến năm dư thừa thứ 5. Sản lượng toàn cầu sẽ vượt tiêu thụ 1,3 triệu tấn trong năm bắt đầu từ 1/10, Tổ chức Đường Quốc tế (ISO) cho biết hôm 26/8.

Trên thị trường ngũ cốc, giá ngô cũng giảm mạnh xuống thấp nhất 50 tháng qua khi mối nguy sương muối lắng dịu làm tăng đồn đoán sản lượng ngô Mỹ sẽ cao hơn dự báo của chính phủ.

Giá ngô giao tháng 12 trên sàn CBOT Chicago giảm 1,1% xuống 3,4425 USD/bushel, trước đó giá chạm 3,43 USD, thấp nhất kể từ 30/6/2010.

Hôm 9/9, USDA cho biết, 74% vụ ngô đang ở trong điều kiện tốt hoặc rất tốt tính đến 7/9, tăng so với 54% cùng kỳ năm ngoái.

Trên thị trường cà phê, giá tiếp tục giảm. Giá cà phê Arabica kỳ hạn giao tháng 9 giá giảm 11,1 US cent/lb xuống 177 US cent/lb, kỳ hạn giao tháng 12 giá giảm 11,35 US cent/lb xuống 181,25 US cent/lb, và kỳ hạn tháng 3/2015 giá giảm 11,3 US cent/lb xuống 185,3 US cent/lb.

Hôm qua không có tin tức gì đáng kể về cà phê Brazil, ngoài việc các vùng trồng cà phê Brazil đang có nắng mùa xuân và chờ đợi những cơn mưa được dự báo sẽ đến trong vài tuần tới.

Giá cà phê Robusta kỳ hạn giao tháng 9 giá giảm 50 USD, tương đương -2,51%, xuống 1.996 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 11 giá giảm 50 USD/tấn, tương đương -2,48%, xuống 2.018 USD/tấn. Kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá giảm 50 USD/tấn, tương đương -2,47%, xuống 2.028 USD/tấn.

Cà phê trong nước giảm theo xu hướng giá thế giới. Sáng nay 11/9, cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên, sau khi không đổi ngày hôm qua, đã giảm 1 triệu đồng/tấn xuống 38,9-39,7 triệu đồng/tấn. Giá cà phê Robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay giảm 50 USD từ 1.998 USD/tấn hôm qua xuống 1.948 USD/tấn.

Thị trường nội địa Việt Nam khá sôi động trong vài tuần qua khi nông dân và thương nhân đẩy mạnh việc xả bán hàng tồn kho trước khi niên vụ mới bắt đầu vào tháng 10. Sản lượng cà phê niên vụ hiện tại ước đạt 27 triệu bao, trong đó 96% là cà phê robusta.

Giới thương nhân dự đoán xuất khẩu cà phê robusta tháng 9 của Việt Nam đạt 1,67-2 triệu bao, cao hơn 1,5 triệu bao của tháng 8, tuy nhiên, phần lớn là đáp ứng các hợp đồng đã ký thay vì hợp đồng mới.

 
 
Giá
+/-
+/- (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
91,67
-1.08
-1.2%
Dầu Brent
USD/thùng
98,04
-1,12
-1,1%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
66.270,00
-340,00
-0,51%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
3,95
-0,01
-0,13%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
253,20
+0,55
+0,22%
Dầu đốt
US cent/gallon
275,80
+0,47
+0,17%
Dầu khí
USD/tấn
838,50
+3,25
+0,39%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
81.700,00
-50,00
-0,06%
Vàng New York
USD/ounce
1.249,50
+4,20
+0,34%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.283,00
-17,00
-0,40%
Bạc New York
USD/ounce
18,98
+0,05
+0,26%
Bạc TOCOM
JPY/g
65,10
-0,20
-0,31%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz.
1.380,63
-2,12
-0,15%
Palladium giao ngay
USD/t oz.
850,61
-0,84
-0,10%
Đồng New York
US cent/lb
311,20
+0,15
+0,05%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.870,00
+30,00
+0,44%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
2.059,00
-9,00
-0,44%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.308,00
+4,00
+0,17%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
21.010,00
+60,00
+0,29%
Ngô
US cent/bushel
344,50
-1,25
-0,36%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
517,50
-2,25
-0,43%
Lúa mạch
US cent/bushel
357,00
+0,25
+0,07%
Gạo thô
USD/cwt
12,46
+0,13
+1,01%
Đậu tương
US cent/bushel
990,50
-3,25
-0,33%
Khô đậu tương
USD/tấn
335,40
-1,80
-0,53%
Dầu đậu tương
US cent/lb
31,75
-0,08
-0,25%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
414,00
-0,70
-0,17%
Cacao Mỹ
USD/tấn
3.063,00
-16,00
-0,52%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
181,25
-11,35
-5,89%
Đường thô
US cent/lb
14,52
-0,36
-2,42%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
148,95
+0,20
+0,13%
Bông
US cent/lb
66,76
-0,38
-0,57%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
334,70
-3,10
-0,92%
Cao su TOCOM
JPY/kg
188,50
-0,10
-0,05%
Ethanol CME
USD/gallon
1,78
-0,00
-0,22%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg