(VINANET) – Phiên giao dịch 17/12 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 18/12 giờ VN), giá dầu hồi phục thoát khỏi mức thấp nhất 5 năm, nhưng vàng và cà phê đều giảm.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu hồi phục khỏi mức thấp nhất 5 năm, cùng với chứng khoán, sau đợt bán tháo do lo ngại nguồn cung tăng và nhu cầu yếu ớt.
Giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 1/2015 trên sàn Nymex New York tăng 54 cent lên 56,47 USD/thùng. Khối lượng giao dịch cao hơn 67% so với mức trung bình 100 ngày.
Giá dầu Brent giao tháng 2/2015 trên sàn ICE Futures Europe London tăng 1,17 USD (+1,9%) lên 61,18 USD/thùng. Khối lượng giao dịch cao hơn 5,3% so với mức trung bình 10 ngày. Hợp đồng giao tháng 1/2015 đáo hạn vào hôm 16/12 ở mức 59,86 USD/thùng, thấp nhất kể từ tháng 5/2009.
Theo giới quan sát thị trường, giá dầu hồi phục là do thương nhân – đặt cược vào giá giảm – thay đổi vị thế. Giá dầu giảm gần 50% kể từ tháng 6 xuống mức thấp nhất hơn 5 năm qua.
Số liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho thấy dự trữ dầu của Mỹ trong tuần kết thúc vào 12/12 giảm, tuy thấp hơn dự đoán, cũng phần nào giúp giá dầu hồi phục.
Theo giới phân tích, lo ngại về dư cung và nhu cầu yếu ớt vẫn tiếp tục bao trùm thị trường và đợt tăng giá này chỉ trong ngắn hạn.
Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 1/2015 trên sàn Nymex tăng 2,52 cent (+1,6%) lên 1,5662 USD/gallon. Giá dầu diesel giao tháng 1/2015 tăng 4,85 cent (+2,5%) lên 2,0085 USD/gallon.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm sau khi Fed đánh tín hiệu sẽ nâng lãi suất trong năm 2015.
Đây là phiên giao dịch giá vàng biến động rất mạnh, có lúc lên trên 1.221 USD, sau đó lại giảm xuống mức thấp nhất 1 tuần qua ở 1.188,41 USD trước khi giao dịch ổn định trở lại.
Giá vàng giao tháng 2/2015 trên sàn Comex New York tăng 0,02% lên 1.194,5 USD/ounce.
Fed đã đưa ra thông điệp mạnh mẽ rằng sẽ nâng lãi suất vào năm tới, thay thế cam kết giữ lãi suất cận 0 trong “một thời gian đáng kể” bằng lời hứa “kiên nhẫn”, theo kết luận phiên họp 2 ngày của Ủy ban Thị trường Mở Liên bang Mỹ (FOMC).
Giới đầu tư cũng đang theo dõi tình hình thị trường Nga sau khi ruble giảm hơn 11% so với USD hôm thứ Ba 16/12 bất chấp việc Ngân hàng trung ương nước này nâng lãi suất lên 17%.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc tăng 0,8% lên 15,79 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,04% lên 1.189,32 USD/ounce, trong khi giá palladium giảm 0,7% xuống 773,2 USD/ounce.
Trên thị trường cà phê, giá đồng loạt giảm trên các thị trường.
Trên thị trường New York, cà phê kỳ hạn giao tháng 3/2015 giảm 5,85 US cent/lb xuống 171,85 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 5,75 US cent/lb xuống 174,45 cent/pound; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 5,6 US cent/lb xuống 176,85 US cent/lb; và kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá giảm 5,3 US cent/lb xuống 179,05 US cent/lb.
Trên thị trường London, cà phê robusta kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá giảm 22 USD/tấn (-1,15%) xuống 1.915 USD/tấn; Kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 18 USD/tấn (-0,92%) xuống 1.946 USD/tấn; Kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 16 USD/tấn (-0,81%) xuống 1.965 USD/tấn; và Kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 15 USD/tấn (-0,76%) xuống 1.980 USD/tấn.
Cà phê Việt Nam giảm theo giá thế giới. Sáng nay, giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên giảm 400.0000 đồng/tấn xuống 38,7-39,4 triệu đồng/tấn.Giá cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay giảm 28 USD/tấn từ 1.914 USD/tấn hôm qua xuống 1.886 USD/tấn.
Volcafe vừa đưa ra dự báo khá lạc quan về sản lượng cà phê Brazil năm 2015, đạt 49,5 triệu bao, cao hơn 10% so với dự báo của cơ quan mùa vụ chính phủ Brazil. Tin tức này khiến giá arabica kỳ hạn giảm khá mạnh, với kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 3,3% xuống 171,85 cent/pound, thấp nhất kể từ giữa tháng 7. Đến nay, giá cà phê arabica đã giảm 25% từ mức đỉnh 2 tháng trước.
Thị trường cà phê đang hướng đến kỳ nghỉ Giáng sinh và Năm mới sau 2 tuần nữa với giao dịch khá trầm lắng khi các nhà rang xay tại thị trường tiêu thụ với lượng tồn kho lớn không mấy hào hứng giao dịch.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
56,59
|
+0,12
|
+0,21%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
61,43
|
+0,25
|
+0,41%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
45.720,00
|
+2.230,00
|
+5,13%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,70
|
0,00
|
+0,03%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
157,21
|
+0,59
|
+0,38%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
200,83
|
-0,02
|
-0,01%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
554,25
|
+6,25
|
+1,14%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
57.320,00
|
+2.340,00
|
+4,26%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.197,80
|
+3,30
|
+0,28%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.560,00
|
+57,00
|
+1,27%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,02
|
+0,26
|
+1,67%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
61,20
|
+1,50
|
+2,51%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.204,13
|
+10,75
|
+0,90%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
783,75
|
+5,00
|
+0,64%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
287,35
|
+0,30
|
+0,10%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.368,00
|
+3,00
|
+0,05%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.921,50
|
+15,00
|
+0,79%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.140,00
|
0,00
|
0,00%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19.450,00
|
-595,00
|
-2,97%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
408,75
|
+0,50
|
+0,12%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
648,50
|
0,00
|
0,00%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
315,25
|
+0,25
|
+0,08%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,08
|
-0,04
|
-0,29%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.036,50
|
+1,25
|
+0,12%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
349,80
|
+0,10
|
+0,03%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
32,03
|
+0,06
|
+0,19%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
437,40
|
-0,30
|
-0,07%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.915,00
|
+1,00
|
+0,03%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
171,85
|
-5,85
|
-3,29%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
14,72
|
+0,01
|
+0,07%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
147,95
|
+0,95
|
+0,65%
|
Bông
|
US cent/lb
|
60,64
|
-0,01
|
-0,02%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
-
|
-
|
-%
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
336,80
|
+4,60
|
+1,38%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
203,70
|
+1,40
|
+0,69%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,62
|
+0,03
|
+1,95%
|
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg