(VINANET) – Trên thị trường thế giới phiên giao dịch 22/7 (kết thúc vào rạng sáng 23/7 giờ VN), giá dầu giảm trở lại bởi các sự kiện chưa có mối đe dọa nào đối với nguồn cung dầu. Dầu thô ngọt nhẹ trên thị trường New York giảm 3,02 USD xuống 102,08 USD/thùng, trong khi dầu Brent trên thị trường London giảm 0,67 USD xuống 107,25 USD/thùng.
Mặc dù giảm nhưng giá dầu hiện vẫn duy trì ở mức cao nhất 3 tuần do các nhà máy lọc dầu bất ngờ hoạt động với công suất cao. Các cơ sở lọc dầu trong tuần kết thúc vào ngày 11/7 đã sử dụng 16,6 triệu thùng dầu/ngày, ghi nhận mức tiêu thụ cao kỷ lục kể từ tháng 8/1982, theo số liệu của Ủy ban thông tin năng lượng Mỹ (EIA).
EIA sẽ công bố số liệu tồn kho dầu của tuần trước trong ngày 23/7. Các chuyên gia phân tích dự báo, tồn kho dầu đã giảm 2,5 triệu thùng. Nguồn cung xăng dự báo sẽ tăng 900.000 thùng trong khi dự trữ sản phẩm dầu tinh chế, gồm dầu đốt nóng và diesel, tăng 1,9 triệu thùng.
Giới thương nhân đặc biệt chú ý đến nguồn cung tại Cushing, Okla. Tồn kho tại Cushing đã giảm mạnh trong vài tháng gần đây nhờ hệ thống đường ống dẫn dầu mới cho phép vận chuyển nhiều dầu hơn tới các nhà máy lọc dầu tại Gulf Coast. Nguồn cung tại Cushing hiện đang ở mức thấp nhất kể từ năm 2008, dấy lên lo ngại rằng, dự trữ dầu có thể sẽ giảm quá thấp, không đủ để cung cấp cho thị trường.
Theo số liệu của Viện dầu mỏ Mỹ (API), tuần trước, dự trữ dầu thô đã giảm 555.000 thùng, xăng tăng 3,6 triệu thùng và tồn kho sản phẩm dầu tinh chế tăng 2,5 triệu thùng.
Với các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 8 giảm 0,4% xuống 2,8807 USD/gallon và giá dầu diesel giảm 0,2% xuống 2,8542 USD/gallon.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm trước đồn đoán Fed tăng lãi suất sớm hơn dự báo, làm giảm nhu cầu vàng như tài sản đầu tư thay thế. Bên cạnh đó, giá vàng cũng giảm do căng thẳng tại Ukraine lắng dịu sau khi phe nổi dậy thân Nga trao trả hộp đen và thi thể nạn nhân xấu số của vụ MH17.
Giá vàng giao tháng 8 giảm 0,6% xuống 1.306,3 USD/ounce.
Đồng USD cùng với cổ phiếu tăng giá cũng tạo áp lực lên giá vàng và các tài sản trú ẩn an toàn khác như trái phiếu dài hạn của Mỹ, sau khi số liệu của Mỹ cho thấy lạm phát tăng. Giá tiêu dùng của Mỹ tăng 0,33% trong tháng 6 sau khi tăng 0,4% trong tháng 5, gia tăng áp lực lên Fed trong việc tăng lãi suất từ mức thấp kỷ lục. Giá USD tăng lên mức cao nhất 4 tuần qua trong giỏ các đồng tiền mạnh.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê trên cả 2 thị trường Liffe và ICE có diễn biến trái ngược so với ngày phiên trước đó.
Thị trường New York, giá cà phê arabica giảm 4,55-4,6 cent/lb, với kỳ hạn giao tháng 7 giá giảm 4,6 cent/lb xuống 172,35 cent/lb, kỳ hạn giao tháng 9 giá giảm 4,55 cent/lb xuống 172,1 cent/lb.
Thị trường London, giá cà phê Robusta các kỳ hạn giảm 3-7 USD/tấn sau khi tăng khá mạnh 12-20 USD/tấn phiên trước đó. Cụ thể, kỳ hạn giao tháng 7 giá giảm 4 USD, tương đương 0,2% xuống 2.021 USD/tấn, trong khi giá giao tháng 9 cũng giảm 3 USD/tấn, tương đương 0,15%, xuống 2.012 USD/tấn.
Theo Báo cáo mới nhất của Cam kết Thương nhân (COT), thị trường cà phê robusta London chứng kiến giới đầu cơ giảm 7% vị thế mua trên thị trường xuống 29.164 lô, tương đương 4.860.667 bao.
Thị trường cà phê robusta vẫn khá ổn định với việc Việt Nam vẫn còn lượng dự trữ khá dồi dào từ vụ trước, do vậy, nguồn cung được dự đoán vẫn ổn định cho đến thời điểm bắt đầu vụ thu hoạch mới sau khoảng 14 tuần nữa.
Sản lượng cà phê của Colombia tiếp tục tăng và doanh số bán ổn định trên thị trường đang giúp nước này giành lại thị phần đã mất. Colombia hiện đang cung cấp khoảng 30% lượng cà phê arabica chế biến ướt (washed arabica coffee) trên thế giới.
Do vậy, với việc Colombia quay lại sân chơi cùng với Brazil và Việt Nam, 3 nước này chiếm khoảng 60% nguồn cung cấp cà phê thế giới. 3 ông lớn này không chỉ đáng tin cậy về nguồn cung mà còn đáng tin cậy cả về thời gian giao hàng, một yếu tố quan trọng, trong việc kiểm soát hàng lưu kho của các công ty.
Đến nay, gần như không có lo ngại gì về viễn cảnh vụ thu hoạch cà phê arabica tại Mexico và Trung Mỹ, diễn ra từ tháng 10/2014 đến tháng 3/2015 với sản lượng dự đoán cao hơn vụ trước ít nhất 1,5 triệu bao. Do vậy, sản lượng vụ thu hoạch mới của khu vực này đạt khoảng 17,5 triệu bao cộng với 11,5-12 triệu bao từ Colombia, dường như không phải lo lắng nhiều về nguồn cung cà phê ướt arabica trong năm cà phê tới đây (tháng 10/2014 – tháng 9/2015).
Trên thị trường trong nước, giá cà phê Tây Nguyên lại giảm xuống 38,8-39,5 triệu đồng/tấn Sáng nay, giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên sau khi tăng 300.000-500.000 đồng/tấn hôm qua, đã giảm 400.000 đồng/tấn xuống 38,8-39,5 triệu/tấn. Giá cà phê Robusta giao tại cảng TPHCM giá FOB hôm nay giảm mạnh 22 USD từ 1.975 USD/tấn ngày hôm qua xuống 1.953 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
|
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá 22/7
|
23/7
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
105,10
|
102,08
|
-3,02
|
-0,30%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
107,92
|
107,25
|
-0,67
|
-0,07%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
66.870,00
|
66.330,00
|
-590,00
|
-0,88%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,84
|
3,77
|
-0,00
|
-0,05%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
290,06
|
287,01
|
-1,06
|
-0,37%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
286,54
|
285,31
|
-0,11
|
-0,04%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
884,00
|
880,50
|
-2,00
|
-0,23%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
83.270,00
|
82.900,00
|
-390,00
|
-0,47%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.313,50
|
1.310,20
|
-3,30
|
+0,17%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.281,00
|
4.267,00
|
-2,00
|
-0,05%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
20,97
|
21,02
|
+0,05
|
+0,06%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
68,40
|
68,50
|
+0,30
|
+0,44%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.484,38
|
1.489,69
|
+2,81
|
+0,19%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
867,00
|
874,44
|
+1,64
|
+0,19%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
321,80
|
320,45
|
-0,35
|
-0,11%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
7.025,00
|
7.040,00
|
+15,00
|
+0,21%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.020,00
|
2.043,00
|
+23,00
|
+1,14%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.336,00
|
2.362,00
|
+26,00
|
+1,11%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
22.200,00
|
22.100,00
|
-100,00
|
-0,45%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
371,75
|
367,75
|
-0,50
|
-0,14%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
530,50
|
523,00
|
-1,50
|
-0,29%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
324,25
|
323,25
|
-0,75
|
-0,23%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
13,01
|
13,14
|
-0,03
|
-0,23%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.070,00
|
1.060,00
|
+2,25
|
+0,21%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
345,50
|
341,60
|
-0,10
|
-0,03%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
36,43
|
36,25
|
+0,22
|
+0,61%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
434,00
|
431,30
|
-2,10
|
-0,48%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.128,00
|
3.131,00
|
+3,00
|
+0,10%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
172,90
|
168,30
|
-4,60
|
-2,66%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
17,28
|
17,16
|
-0,12
|
-0,69%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
153,20
|
153,45
|
+0,25
|
+0,16%
|
Bông
|
US cent/lb
|
68,09
|
68,04
|
+0,13
|
+0,19%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
-
|
-
|
-
|
-%
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
327,80
|
333,00
|
+0,60
|
+0,18%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
202,30
|
202,30
|
0,00
|
0,00%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,89
|
1,90
|
+0,01
|
+0,42%
|
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg