(VINANET) Giá hàng hóa trên thị trường thế giới phiên giao dịch 4/8 (kết thúc vào rạng sáng 5/8 giờ VN) hầu hết giảm, từ vàng tới cà phê và ngũ cốc, ngoại trừ xăng dầu hồi phục mạnh.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu thô hồi phục lên mức cao nhất gần 6 tháng do nhu cầu tiêu thụ tại Mỹ dự báo giảm, căng thẳng địa chính trị dấy lên lo ngại về nguồn cung.

Giá dầu ngọt nhẹ (WTI) trên thị trường New York kỳ hạn giao tháng 9 tăng 0,4% lên 98,29 USD/thùng, trong khi dầu Brent giao tháng 9 tại Londoon cũng tăng 0,5% lên 105,41 USD/thùng.

Tuần trước, giá dầu tại Mỹ ghi nhận mức giảm lớn nhất kể từ tháng 1 do nhà máy lọc dầu tại Kansas phải đóng cửa 4 tháng sau khi xảy ra hỏa hoạn. Nhà máy lọc dầu này là một trong những điểm tiêu thụ dầu chính tại điểm phân phối Cushing, Okla. Như vậy, nhu cầu tại Cushing rất có thể sẽ giảm mạnh và tồn kho tăng cao.

Tuy nhiên, giới thương nhân lại khá thận trọng khi đặt cược vào giá dầu trong bối cảnh tình hình bạo lực tại Libya, Iraq, Ukraine và Dải Gaza tiếp tục diễn biến bất thường và có thể ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất và xuất khẩu dầu bất cứ lúc nào.

Với các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 9 giảm 0,7% xuống 2,7249 USD/gallon, ghi nhận mức giá thấp nhất kể từ ngày 10/2. Giá dầu diesel giao tháng 9 tăng 0,2% lên 2,8712 USD/gallon.Giá vàng giảm khi S&P tăng, Bồ Đào Nha tung ra gói cứu trợ 6,6 tỷ USD

Trên thị trường thế giới, giá vàng thế giới đã giảm 5 trong 6 phiên giao dịch vừa qua khi chứng khoán Mỹ tăng làm giảm nhu cầu vàng như khoản đầu tư thay thế.

Giá vàng giao tháng 12 trên sàn Comex New York giảm 0,5% xuống 1.288,9 USD/ounce lúc 13h40. Khối lượng giao dịch thấp hơn 50% so với mức trung bình 100 ngày, theo số liệu của Bloomberg. Hôm 1/8, giá vàng chạm 1.281 USD, mức thấp nhất kể từ 19/6.

Hôm thứ 6 tuần trước giá vàng đã tăng trở lại sau khi số liệu việc làm phi nông nghiệp tại Mỹ thấp hơn dự đoán làm giảm đồn đoán Fed sẽ sớm tăng lãi suất.

Tuy nhiên, trong cả tháng 7, giá vàng giảm 3% do lo ngại rằng Fed sẽ nâng lãi suất khi nền kinh tế tiếp tục đà tăng trưởng.

Trong nửa đầu năm nay, giá vàng đã tăng 10% khi bạo lực tại Trung Đông và Ukraine làm tăng nhu cầu tài sản trú ẩn an toàn.

Trên thị trường vàng vật chất, sức mua vẫn ảm đạm trong thời gian mùa hè vốn trầm lắng theo mùa, thậm chí nhiều người tiêu dùng còn hy vọng giá sẽ giảm sâu hơn.

Tại Trung Quốc, nước mua vàng hàng đầu thế giới, hiện giá vàng trong nước cao hơn giá vàng thế giới 3 USD/ounce so với 20 USD hồi đầu năm. Chênh lệch giá vàng trong nước và quốc tế tại một số nước khác ở châu Á cũng vẫn ổn định trong những tuần qua.

Về các kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,4% xuống 20,19 USD/ounce, giá bạch kim tăng 0,3% lên 1.458,75 USD/ounce, trong khi giá palladium giảm 1,1% xuống 852,22 USD/ounce.

Trên thị trường nông sản, giá cà phê robusta và arabica đều giảm. Trên thị trường London, giá cà phê robusta giảm khoảng 84-90 USD/tấn. Robusta kỳ hạn giao tháng 9 giá giảm 90 USD/tấn, tương đương 4,48%, xuống 2.007 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 11 giá giảm 85 USD/tấn, tương đương 4,23% xuống 2.008 USD/tấn.

Cùng diễn biến với sàn Liffe, giá arabica trên sàn New York cũng giảm khoảng 1,4-1,85 cent/lb. Arabica kỳ hạn giao tháng 9 giá giảm 1,85 cent/lb xuống 190,5 cent/lb, kỳ hạn giao tháng 12 giá giảm 1,7 cent/lb xuống 194,4 cent/lb, và giá kỳ hạn tháng 3/2015 giá giảm 1,55 cent/lb xuống 197,8 cent/lb.

Việt Nam, nước sản xuất cà phê Robusta hàng đầu thế giới, có thể xả thêm hàng trước vụ thu hoạch sắp tới khi nguồn cung và lượng hàng lưu kho tác động xấu đến giá của hầu hết các hàng hóa mềm trong tuần này.

Trên thị trường Việt Nam, giá cà phê giảm theo xu hướng gí thế giới, với cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên giảm 1,8 triệu đồng/tấn xuống 38,6-39,3 triệu đồng/tấn, cà phê Robusta giao tại cảng TPHCM giá FOB hôm nay cũng giảm 90 USD từ 2.057 USD/tấn cuối tuần trước xuống 1.967 USD/tấn.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa
ĐVT
Giá 4/8
Giá 5/8
+/-
+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng
97,88
98,47
+0,18
+0,18%

Dầu Brent

USD/thùng
104,84
105,62
+0,21
+0,20%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl
66.540,00
66.850,00
-30,00
-0,04%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu
3,80
3,84
+0,01
+0,13%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon
274,43
272,66
+0,17
+0,06%

Dầu đốt

US cent/gallon
286,61
287,32
+0,20
+0,07%

Dầu khí

USD/tấn
885,75
884,25
+1,50
+0,17%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl
82.810,00
83.160,00
-30,00
-0,04%

Vàng New York

USD/ounce
1.294,80
1.289,60
+0,70
+0,05%

Vàng TOCOM

JPY/g
4.272,00
4.253,00
-22,00
-0,51%

Bạc New York

USD/ounce
20,37
20,22
-0,01
-0,06%

Bạc TOCOM

JPY/g
67,10
66,80
-0,70
-1,04%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.
1.463,69
1.462,88
+1,19
+0,08%

Palladium giao ngay

USD/t oz.
864,45
857,22
+1,23
+0,14%

Đồng New York

US cent/lb
321,45
323,75
-0,65
-0,20%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn
7.074,50
7.130,00
+55,50
+0,78%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn
1.975,00
2.029,00
+54,00
+2,73%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn
2.338,00
2.393,50
+55,50
+2,37%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn
22.450,00
22.400,00
-50,00
-0,22%
Ngô
US cent/bushel
362,25
367,25
-2,00
-0,54%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel
534,25
543,00
-1,00
-0,18%

Lúa mạch

US cent/bushel
330,75
330,25
-0,25
-0,08%

Gạo thô

USD/cwt
12,79
12,86
+0,03
+0,23%

Đậu tương

US cent/bushel
1.058,50
1.073,25
-6,25
-0,58%

Khô đậu tương

USD/tấn
342,40
346,00
-1,80
-0,52%

Dầu đậu tương

US cent/lb
35,71
36,17
-0,23
-0,63%

Hạt cải WCE

CAD/tấn
434,30
436,10
+1,80
+0,41%

Cacao Mỹ

USD/tấn
3.184,00
3.179,00
-5,00
-0,16%

Cà phê Mỹ

US cent/lb
192,35
190,50
-1,85
-0,96%

Đường thô

US cent/lb
16,35
16,32
-0,03
-0,18%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb
139,35
142,40
+3,05
+2,19%
Bông
US cent/lb
63,27
64,23
-0,01
-0,02%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg
-
-
-
-%

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet
324,10
327,70
+1,80
+0,55%

Cao su TOCOM

JPY/kg
205,80
203,10
-1,00
-0,49%

Ethanol CME

USD/gallon
1,91
1,91
-0,01
-0,42%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg