(VINANET) - Thị trường hàng hóa thế giới tuần qua bị chi phối mạnh bởi các động thái của Fed cũng như tình hình chính trị tại Ukraina.

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu Mỹ phiên cuối tuần vọt lên mức cao kỷ lục 5 tuần sau báo cáo cho thấy niềm tin tiêu dùng Mỹ được cải thiện. Hợp đồng dầu thô ngọt nhẹ kỳ hạn giao tháng 5 tại New York phiên 11/4 (kết thúc vào rạng sáng 12/4 giờ VN) giá tăng 0,3% lên 103,74 USD/thùng, mức cao nhất kể từ ngày 3/3.

Bộ lao động cho biết chỉ số giá sản xuất (PPI) điều chỉnh theo mùa của tháng 3– thước đo lạm phát – tăng 0,5% so với tháng 2. Sau đó, khảo sát của Thomson-Reuters/Đại học Michigan cho biết, niềm tin tiêu dùng trong đầu tháng 4 đã lên mức cao nhất kể từ tháng 7/2013.

Trong phiên giao dịch, giá dầu có lúc tăng lên 104,44 USD/thùng , sau đó giảm xuống một chút trong đợt bán tháo kết thúc phiên. Tính chung trong cả tuần, giá hợp đồng trên sàn Nymex tăng 2,6%, tăng mạnh nhất kể từ tháng 12.

Theo Citigroup, một yếu tố nữa hỗ trợ cho thị trường dầu khí là dự trữ xăng giảm khi Mỹ bắt đầu vào mùa hè, nhu cầu đi lại tăng lên kéo theo nhu cầu về nhiên liệu. Tuần này, Ủy ban thông tin năng lượng Mỹ (EIA) cho biết, dự trữ khí đốt giảm 5,4 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 4/4, thấp hơn mức trung bình của năm 2013.

Trái lại, giá dầu Brent tại London phiên cuối tuần giảm 0,1% xuống 107,33 USD/thùng tại

Với các sản phẩm dầu, giá xăng tại New York tăng 0,65% lên 3,0144 USD/gallon. Giá dầu diesel giao tháng 5 giảm 0,58 xu xuống 2,9332 USD/gallon.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tuần qua tăng khá mạnh, kết thúc tuần ở mức 1.318,5 USD/oz, tăng 16,2 USD/oz so với một tuần trước đó, do căng thẳng chính trị tại Ukraina và sự suy yếu của đồng bạc xanh xuất phát từ các thông tin kinh tế Mỹ.

Ngày 10/4, giá vàng lên mức cao nhất kể từ ngày 24/3, giao dịch ở 1.324,40 USD/ounce khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) công bố biên bản cuộc họp chính sách tháng 3, cho biết sẽ không tăng lãi suất ngay sau khi kết thúc chương trình mua trái phiếu.

Tuy nhiên, giá vàng chỉ tăng hạn chế bởi giới đầu tư tiếp tục vốn rút ra khỏi các quỹ đầu tư vàng và nhu cầu vàng vật chất ở châu Á yếu. Hoạt động mua vàng tại châu Á khá trầm lắng trong hơn 1 tháng nay, đặc biệt là Trung Quốc do nhân dân tệ suy yếu. Trong khi đó, nhập khẩu vàng và bạc của Ấn Độ cũng giảm 40% xuống 33,46 tỷ USD trong giai đoạn 2013 – 2014.

Phiên cuối tuần, giá vàng giao ngay tại COMEX chốt ở mức mức 1.318,5USD/oz, tăng 16,2USD/oz so với mức giá đóng cửa tuần trước đó. Giá vàng kỳ hạn tháng 6 cũng tăng 15,5USD/oz lên 1.319USD/oz.

Tại châu Á, giá vàng giao ngay trên sàn Kitco kết thúc tuần ở mức 1318,4 USD/ounce, tăng 0,3 USD/ounce so với phiên trước đó.

Với các kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,2% xuống 19,96 USD/ounce trong khi bạch kim tăng 0,09% lên 1.450,75 USD/ounce. Giá Palladium giao ngay tăng 2,4% lên 810 USD/ounce, mức giá cao nhất kể từ tháng 8/2011.

Một số nhà phân tích tỏ ra thận trọng hơn thì cho rằng, giá vàng tuần tới phụ thuộc khá nhiều vào diễn biến chính trị tại Ukraina. Bên cạnh đó, trong tuần cũng có khá nhiều dữ liệu kinh tế của Mỹ được công bố như Doanh số bán lẻ, chỉ số giá tiêu dùng, trợ cấp thất nghiệp và ấn phẩm Beige book của Fed… Tất cả những số liệu này có thể có những tác động nhất định đến thị trường.

Trên thị trường nông sản, giá cà phê tuần qua biến động rất mạnh.

Phiên cuối tuần, giá cà phê arabica tại New York các kỳ hạn đảo chiều giảm sau 6 phiên liên tiếp tăng trước đó, với hợp đồng kỳ hạn tháng 5 giá giảm 2,44% xuống 201,2 cent/lb. Giá giao tháng 7 giảm 2,38% xuống 203,55 cent/lb. Các kỳ hạn khác giá đều giảm trên 2,1%. Tính chung cả tuần giá tăng 8,8%, mức tăng mạnh nhất trong 5 tuần qua.

Giá giảm trở lại bởi cuối tuần có mưa ở Brazil, làm giảm lo ngại về nguy cơ giảm sản lượng.

Trước đó, giá cà phê arabica đạt mức cao nhất kể từ tháng 2/2012, sau khi một thị trấn nhỏ ở bang trồng cà phê lớn nhất của Brazil tuyên bố tình trạng khẩn cấp do tác động từ hạn hán tháng 1-2 và Hội đồng cà phê quốc gia của Brazil (CNC) ước tính sản lượng năm nay sẽ giảm xuống mức thấp 40,1 triệu bao. Tuy nhiên lượng giao dịch cao, sơ bộ trên 52.500 lô hàng, gấp đôi mức trung bình 250 ngày, theo Reuters.

Trên sàn Liffe tại London, giá cà phê Robusta cũng giảm phiên cuối tuần, với hợp đồng kỳ hạn giao tháng 5 giá giảm 21USD, tương đương 0,98% xuống 2.141 USD/tấn. Kỳ hạn giao tháng 7 giá giảm 16 USD, tương đương 0,75% xuống 2.142 USD/tấn. Các kỳ hạn khác giá giảm trên dưới 0,6%.

Thị trường cà phê Việt Nam tiếp tục biến động theo giá thế giới. Kết thúc tuần, giá cà phê robusta giao tại cảng giá FOB giảm 21 USD so với phiên trước đó xuống 2.071 USD/tấn. Giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên lại đồng loạt giảm 400 nghìn đồng/tấn xuống 40,6-41,4 triệu đồng/tấn.

Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá
+/-
+/- (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
103,74
+0,34
+0,33%
Dầu Brent
USD/thùng
107,33
-0,13
-0,12%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
65.340,00
-30,00
-0,05%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
4,62
-0,04
-0,75%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
301,44
+0,65
+0,22%
Dầu đốt
US cent/gallon
293,32
-0,58
-0,20%
Dầu khí
USD/tấn
904,00
+1,75
+0,19%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
78.580,00
-10,00
-0,01%
Vàng New York
USD/ounce
1.319,00
-1,50
-0,11%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.315,00
-9,00
-0,21%
Bạc New York
USD/ounce
19,95
-0,15
-0,72%
Bạc TOCOM
JPY/g
65,70
-0,30
-0,45%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz.
1.457,88
+1,50
+0,10%
Palladium giao ngay
USD/t oz.
804,88
+14,21
+1,80%
Đồng New York
US cent/lb
304,15
-0,35
-0,11%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.670,00
+15,00
+0,23%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.884,00
-8,00
-0,42%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.027,50
-12,50
-0,61%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
23.375,00
-25,00
-0,11%
Ngô
US cent/bushel
504,50
-2,75
-0,54%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
668,25
-1,75
-0,26%
Lúa mạch
US cent/bushel
355,50
-0,75
-0,21%
Gạo thô
USD/cwt
15,66
+0,02
+0,13%
Đậu tương
US cent/bushel
1.447,25
-18,25
-1,25%
Khô đậu tương
USD/tấn
463,10
-5,50
-1,17%
Dầu đậu tương
US cent/lb
42,26
-0,42
-0,98%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
470,10
-8,90
-1,86%
Cacao Mỹ
USD/tấn
2.999,00
+14,00
+0,47%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
203,55
-4,85
-2,33%
Đường thô
US cent/lb
16,80
-0,28
-1,64%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
165,00
+1,15
+0,70%
Bông
US cent/lb
90,45
+0,16
+0,18%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
1.027,00
0,00
0,00%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
328,30
-4,90
-1,47%
Cao su TOCOM
JPY/kg
214,10
+0,40
+0,19%
Ethanol CME
USD/gallon
2,23
0,00
+0,13%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg