(VINANET) – Giá dầu đảo chiều tăng ngoạn mục trong phiên giao dịch cuối tuần. Tuy nhiên, tính chung trong tuần giá vẫn giảm. Vàng cũng giảm giá trong tuần qua sau 2 tuần tăng nhẹ trước đó.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu thô đảo chiều tăng mạnh nhất kể từ tháng 8/2012 sau khi bộ trưởng dầu mỏ Saudi Arabia đưa ra những nhận định lạc quan về thị trường.
Hãng thông tấn xã nhà nước Saudi Press Agency ngày hôm qua dẫn lời Bộ trưởng dầu mỏ Saudi Arabia ông Ali Al-Naimi cho biết, sự sụt giảm của giá dầu chỉ là tạm thời. Ông cũng nói rằng sẽ “rất khó, nếu không muốn nói là không thể” để OPEC kìm hãm sản xuất trong bối cảnh nguồn cung dồi dào như hiện nay. Sau phát biểu này giá dầu đã bật tăng ngay lập tức. Theo ước tính của BP Plc thì Saudi Arabia chiếm 13% tổng sản lượng dầu toàn cầu trong năm ngoái.
Trên sàn giao dịch Nymex (New York), giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 2 phiên cuối tuần tăng 2,77 USD tương đương 5,1% lên 57,13 USD/thùng – tăng mạnh nhất kể từ tháng 8/2012. Tuy nhiên tính chung tuần, giá dầu vẫn giảm 2,2% và giảm tổng cộng 43% kể từ đầu năm.
Trên sàn giao dịch ICE (London), giá dầu Brent phiên cuối tuần tăng 2,11 USD tương đương 3,6% lên 61,38 USD/thùng và đã giảm 45% kể từ đầu năm tới nay.
Giá dầu đã giảm hơn 20% kể từ phiên họp của OPEC ngày 27/11 quyết định giữ nguyên sản lượng trong bối cảnh nguồn cung dồi dào và tăng trưởng nhu cầu yếu. Sản lượng dầu khí đá phiến của Mỹ năm nay ở mức cao nhất trong 3 thập kỷ và đang cạnh tranh thị phần với 12 nước OPEC.
Hôm 14/12, Bộ trưởng dầu mỏ của Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất đã nhận định OPEC sẽ không cắt giảm sản lượng khi mà các nước khác đang đẩy mạnh khai thác. Khối này sẽ giữ nguyên sản lượng ngay cả khi giá dầu giảm xuống 40 USD/thùng và phải chờ ít nhất 3 tháng trước khi xem xét một cuộc khẩn cấp.
Trên bản đồ dầu mỏ hiện nay thì Nga đang là nước sản xuất lớn nhất. Nguồn thu từ dầu chiếm hơn một nửa tổng nguồn thu ngân sách của Nga, vì thế giá dầu giảm đang là gánh nặng đè lên vai của tổng thống Putin.
Về các sản phẩm dầu, giá xăng RBOB giao tháng 1/2015 trên sàn Nymex tăng 3,23 cent (+2,1%) lên 1,5595 USD/gallon, trong khi giá dầu diesel giao tháng 1/2015 tăng 2,35 cent (+1,2%) lên 1,9622 USD/gallon.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng phiên cuối tuần vẫn ở dưới 1.200 USD/ounce khi USD và chứng khoán Mỹ cùng tăng giá trong bối cảnh giới đầu tư đổ tiền vào tài sản rủi ro trước đồn đoán Fed nâng lãi suất.
Vàng kỳ hạn giao tháng 2/2015 trên sàn Comex tăng nhẹ 0,1% lên 1.196 USD/ounce giao dịch ở 1.196 USD/ounce, giảm 26 USD cho cả tuần.
Fed, sau khi kết thúc phiên họp chính sách 2 ngày vào hôm thứ Tư 17/12, đã đánh tín hiệu sẽ nâng lãi suất vào năm tới nhưng cho biết sẽ giữ quan điểm kiên nhẫn, giúp kiềm chế đà giảm của giá vàng.
Quan điểm kiên nhẫn của Fed trong việc nâng lãi suất đã giúp cổ phiếu châu Âu và Mỹ tăng lên sau khi chứng khoán châu Á có ngày tăng mạnh nhất trong 15 tháng qua. USD tăng 0,4% so với các đồng tiền trong giỏ tiền tệ, trong khi yên giảm trước đồn đoán việc chính phủ Nhật tăng cường kích thích vào năm tới sẽ đẩy lạm phát lên cao hơn.
Lãi suất cao hơn sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến giá vàng do vàng là tài sản phi lãi suất.
Commerzbank dự đoán giá vàng tiếp tục chịu áp lực trong nửa đầu năm 2015, dao động ở 1.100 USD/ounce do tác động của việc nâng lãi suất, kỳ vọng lạm phát thấp, giá dầu lao dốc và tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm chạp.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc tăng 1% lên 16,01 USD/ounce, giá bạch kim giảm 0,3% xuống 1.191,1 USD/ounce và giá palladium tăng 1,7% lên 801,97 USD/ounce.
Trong thời gian lễ hội sắp tới, giới phân tích dự báo giá vàng sẽ không có biến động mạnh do mọi người đang tập trung vào kỳ nghỉ lễ.
Colin Cieszynski, nhà phân tích thị trường cao cấp tại CMC Markets, cho biết, thị trường vàng dường như ổn định ở 1.200 USD/ounce và có thể duy trì mức này ít nhất trong 1-2 tuần đầu năm mới. Thậm chí giá dầu thô cũng ổn định với giá dầu WTI ngọt nhẹ xoay quanh mốc 55 USD/thùng.
Trước kỳ nghỉ Lễ Giáng sinh, Bộ Thương mại Mỹ sẽ công bố ước tính cuối cùng về GDP quý IV/2014. Tuy nhiên, Julian Jessop, phụ trách chiến lược hàng hóa ở Capital Economics, cho biết, đây là lần dự báo cuối cùng và sẽ không đưa ra “điều gì mới” về tình hình kinh tế hiện tại của Mỹ. Thị trường Mỹ đang duy trì đà tăng trưởng và số liệu sẽ công bố này sẽ không dẫn đến thay đổi đáng kể.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê phiên cuối tuần diễn biến trái chiều, tăng ở New York nhưng giảm ở London.
Cà phê arabica kỳ hạngiao tháng 3/2015 trên sàn New York giá tăng 0,35 US cent/lb lên 174,7 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá tăng 0,3 US cent/lb lên 177,25 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 0,35 US cent/lb lên 179,7 US cent/lb; và kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá tăng 0,4 US cent/lb lên 181,95 US cent/lb.
Như vậy, giá cà phê arabica đã tăng phiên thứ 2 liên tiếp, lần đầu tiên trong 1 tháng, được hỗ trợ khi đồng real Brazil tăng giá và những nghi ngờ về tồn kho của các nhà rang xay.
Trong khi đó, giá cà phê robusta vẫn giảm, bất chấp một số diễn giải tích cực từ ước tính của Nedcoffee rằng Indonesia sẽ thu hoạch 390.000 tấn cà phê (chủ yếu là robusta) niên vụ 2015-2016.
Robustakỳ hạn giao tháng 1/2015 trên sàn London giá giảm 16 USD/tấn xuống 1.896 USD/tấn; Kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 13 USD/tấn xuống 1.929 USD/tấn; Kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 13 USD/tấn xuống 1.946 USD/tấn; và Kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 11 USD/tấn xuống 1.963 USD/tấn.
Giới đầu tư coi dự đoán của Nedcoffee có lợi cho giá cà phê robusta khi Indonesia là nước xuất khẩu robusta, nhu cầu nội địa tại nước này ngày một tăng và vụ thu hoạch tại Việt Nam được dự đoán giảm.
Cà phê Việt Nam giảm giá theo xu hướng tại London. Phiên 20/12 giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên đã có phiên giảm thứ 3 liên tiếp khi giảm 300.000 đồng/tấn xuống 38,5-39,1 triệu đồng/tấn. Giá cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB cũng giảm 13 USD/tấn từ 1.882 USD/tấn hôm qua xuống 1.869 USD/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá 13/12
|
Giá 20/12
|
20/12 so với 19/12
|
20/12 so với 19/12 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
57,81
|
57,13
|
+2,77
|
+5,10%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
61,85
|
61,38
|
+2,11
|
+3,56%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
46.750,00
|
46.180,00
|
+1.250,00
|
+2,78%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,80
|
3,46
|
-0,18
|
-4,89%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
159,73
|
57,13
|
+2,77
|
+5,10%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
201,60
|
61,38
|
+2,11
|
+3,56%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
566,00
|
46.180,00
|
+1.250,00
|
+2,78%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
58.260,00
|
3,46
|
-0,18
|
-4,89%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.222,50
|
1.196,00
|
+1,20
|
+0,10%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.660,00
|
4.595,00
|
-4,00
|
-0,09%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,06
|
16,03
|
+0,10
|
+0,60%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
65,10
|
61,60
|
+0,40
|
+0,65%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz,
|
1.229,75
|
1.198,88
|
-1,87
|
-0,16%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz,
|
815,13
|
806,30
|
+13,60
|
+1,72%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
293,40
|
288,45
|
+3,10
|
+1,09%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.490,00
|
6.400,00
|
+85,00
|
+1,35%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.935,00
|
1.906,50
|
-4,50
|
-0,24%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.191,00
|
2.180,00
|
+54,00
|
+2,54%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
20.400,00
|
19.175,00
|
+75,00
|
+0,39%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
407,50
|
410,50
|
-0,50
|
-0,12%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
606,50
|
632,25
|
-23,00
|
-3,51%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
312,50
|
310,50
|
-5,75
|
-1,82%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,35
|
12,53
|
+0,20
|
+1,62%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.053,75
|
1.038,50
|
-4,75
|
-0,46%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
356,30
|
352,00
|
-1,90
|
-0,54%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
32,57
|
32,16
|
+0,08
|
+0,25%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
436,20
|
437,10
|
-0,50
|
-0,11%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.857,00
|
2.980,00
|
+15,00
|
+0,51%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
174,00
|
174,70
|
+0,35
|
+0,20%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
14,98
|
14,98
|
-0,01
|
-0,07%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
149,45
|
142,10
|
-2,60
|
-1,80%
|
Bông
|
US cent/lb
|
60,54
|
60,89
|
+0,07
|
+0,12%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
-
|
-
|
-
|
-%
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
338,30
|
338,00
|
+1,10
|
+0,33%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
197,90
|
206,10
|
+2,30
|
+1,13%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,72
|
1,58
|
-0,00
|
-0,19%
|
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg