(VINANET) – Phiên cuối tuần 23/1 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 24/1 giờ VN), giá dầu Mỹ giảm xuống mức thấp nhất 6 năm, trong khi vàng đảo chiều giảm sau nhiều phiên tăng. Tính chung trong tuần giá dầu giảm khá mạnh, nhưng vàng vẫn tăng tuần thứ 3 liên tiếp.

Trên thị trường năng lượng, phiên cuối tuần giá dầu Mỹ giảm tiếp xuống mức thấp nhất 6 năm sau khi giới đầu tư đặt cược rằng Arab Saudi vẫn tiếp tục chính sách dầu mỏ hiện tại bất chấp sự thay đổi lãnh đạo tại nước này. Và điều này đã diễn ra đúng như dự đoán.

USD tăng giá cũng tạo thêm áp lực lên giá dầu, trong khi kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại, gây ảnh hưởng đến nhu cầu dầu toàn cầu. Cả giá dầu Brent và WTI đều giảm trong cả tuần.

Giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 3/2015 trên sàn Nymex New York phiên cuối tuần giảm 72 cent, tương đương 1,6%, xuống 45,59 USD/thùng sau khi tăng 3% cuối ngày thứ Năm sau thông báo Vua Abdullah bin Abdulaziz al Saud của Arab Saudi qua đời. Khối lượng giao dịch cao hơn 13% so với mức trung bình 100 ngày. Cả tuần giá giảm 7,2%.

Trên sàn London, giá dầu Brent giao tháng 3/2015 phiên cuối tuần tăng 27 cent USD, tương đương 0,6%, lên 48,79 USD/thùng sau khi tăng hơn 2% trong cuối ngày thứ Năm 22/1. Khối lượng giao dịch cao hơn 2% so với mức trung bình 100 ngày. Tuy nhiên tính chung cả tuần giá vẫn giảm 2,8%.

Bất chấp việc giá dầu giảm hơn 55% kể từ tháng 6/2014 trong bối cảnh dư cung và nhu cầu ảm đạm, Arab Saudi vẫn duy trì sản lượng trong một nỗ lực giữ thị phần thay vì giảm sản lượng để đẩy giá lên. Giới thương nhân dự đoán quan điểm này của Arab saudi có thể thay đổi sau khi Vua Abullah qua đời, nhưng nhà vua mới đã nhanh chóng nêu rõ rằng ông sẽ tiếp tục duy trì chính sách dầu mỏ hiện tại và tiếp tục giữ ông Ali al-Naimi ở vị trí Bộ trưởng Dầu mỏ Arab Saudi.

Giá xăng RBOB giao tháng 2/2015 trên sàn Nymex tăng 1,71 cent (+1,3%) lên 1,3479 USD/gallon. Trong khi đó, giá dầu diesel giao tháng 2/2015 tăng 0,88 cent (+0,5%) lên 1,6467 USD/gallon.
Trên thị trường kim loại quý, vàng đảo chiều giảm phiên cuối tuần, song vẫn có tuần thứ 3 tăng lienen tiếp sau khi Goldman Sachs nâng dự báo giá vàng trung bình năm 2015 từ 1.200 USD/ounce lên 1.262 USD/ounce.

Phiên cuối tuần, giá vàng giao ngay rơi xuống 1.291,2 USD/ounce, giảm 0,8% so với phiên liền trước. Giá vàng kỳ hạn giảm 8,1 USD xuống 1.292,6 USD/ounce. Tính chung tuần, giá vàng tăng 1% - tuần tăng thứ 3 liên tiếp.

Đồng USD tăng so với các đồng tiền chủ chốt đã khiến giá vàng giảm sau nhiều phiên liên tiếp tăng. Đồng USD trong phiên 23/1 đã tăng 1,4% so với 6 đồng tiền chủ chốt, chủ yếu do đồng euro yếu. Thị trường chứng khoán châu Âu trong khi đó có chuỗi 2 tuần tăng mạnh nhất trong vòng 5 năm trở lại đây. Giá vàng tính theo đồng euro thiết lập mức cao nhất kể từ tháng 4/2013 tại 1.167,6 euro/ounce.

Vàng, thường được coi là công cụ phòng ngừa lạm phát hiệu quả, đã tăng vượt 1.300 USD/ounce trong phiên ngày thứ Năm – ngay sau khi Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) tuyên bố kế hoạch bơm hơn 1 nghìn tỷ euro vào nền kinh tế.

Triển vọng tuần tới, hầu hết các nhà phân tích đều cho rằng giá vàng sẽ đi lên, đặc biệt sau động thái nâng dự báo giá vàng của Goldman Sachs trung bình năm 2015 từ 1.200 USD/ounce lên 1.262 USD/ounce.

Nhà đầu tư hiện cũng đang chú ý tới cuộc bầu cử ở Hy Lạp vào Chủ Nhật tuần này, và cuộc họp của Ủy ban thị trường mở của Fed tuần tới về chính sách để có những kế hoạch tiếp theo cho dòng tiền.

Rất có thể, Fed sẽ nhắc lại những rủi ro của nền kinh tế thế giới đối với Mỹ, hoặc kế hoạch nâng lãi suất trong tương lai gần dù rằng một số ngân hàng trung ương thời gian gần đây đi ngược xu thế đó bằng việc cắt giảm lãi suất hoặc kích thích kinh tế.

Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,2% xuống 18,25 USD/ounce, giá palladium giảm 0,1% xuống 771,2 USD/ounce, trong khi giá bạch kim giảm 1,3% xuống 1.264 USD/ounce.

Trên thị trường nông sản, cà phê robusta tiếp tục xu hướng giảm giá, nhưng arabica tăng trở lại.

Cà phê arabica kỳ hạn giao tháng 3/2015 trên sàn New York phiên cuối tuần giá tăng 2,5 US cent/lb lên 162,45 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá tăng 2,5 US cent/lb lên 165,15 US cent/lb; kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá tăng 2,55 US cent/lb lên 167,75 US cent/lb; và kỳ hạn giao tháng 9/2015 giá tăng 2,6 US cent/lb lên 170,1 US cent/lb.

Giá cà phê arabica đã hồi phục sau khi xuống thấp nhất 11 tháng sau tin tức cho thấy Starbucks nhận định giá cà phê giảm như cơ hội đẩy sức mua tăng lên.

Tồn kho cà phê arabica chế biến ướt có chứng chỉ trên sàn New York hôm 22/1 giảm 1.252 bao xuống 2.291.817 bao, trong khi số bao chờ đánh giá, phân hạng giảm 2.060 bao xuống 5.453 bao.

Trên thị trường London, cà phêrobusta  kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá giảm 10 USD/tấn xuống 1.903 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 3/2015 giá giảm 10 USD/tấn xuống 1.931 USD/tấn; kỳ hạn giao tháng 5/2015 giá giảm 8 USD/tấn xuống 1.960 USD/tấn; và kỳ hạn giao tháng 7/2015 giá giảm 9 USD/tấn xuống 1.984 USD/tấn.

Cà phê Việt Nam giảm theo xu hướng robusta thế giới. Sáng nay (24/1), giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên, đã có phiên thứ 4 giảm liên tiếp, khi giảm 200.000 đồng/tấn xuống 38,9-39,6 triệu đồng/tấn. Giá cà phê robusta giao tại cảng TP.HCM giá FOB hôm nay giảm 10 USD/tấn từ 1.851 USD/tấn hôm qua xuống 1.841 USD/tấn.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT
Giá 17/1
Giá 24/1
Giá 24/1 so với 17/1
Giá 24/1 so với 17/1 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng
48,36
45,59
-0,72
-1,55%

Dầu Brent

USD/thùng
50,11
48,79
+0,27
+0,56%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl
39.750,00
37.830,00
-610,00
-1,59%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu
2,95
2,99
+0,15
+5,33%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon
132,32
134,79
+1,71
+1,28%

Dầu đốt

US cent/gallon
170,30
164,67
+0,88
+0,54%

Dầu khí

USD/tấn
478,75
477,00
+2,75
+0,58%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl
51.570,00
49.140,00
-580,00
-1,17%

Vàng New York

USD/ounce
1.216,10
1.292,60
-8,10
-0,62%

Vàng TOCOM

JPY/g
4.641,00
4.888,00
-34,00
-0,69%

Bạc New York

USD/ounce
16,42
18,30
-0,06
-0,33%

Bạc TOCOM

JPY/g
62,70
69,00
-0,80
-1,15%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz,
1.233,31
1.268,75
-16,38
-1,27%

Palladium giao ngay

USD/t oz,
802,90
775,63
-0,87
-0,11%

Đồng New York

US cent/lb
275,45
250,15
-7,70
-2,99%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn
6.090,00
5.519,50
-145,50
-2,57%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn
1.810,00
1.831,00
-35,00
-1,88%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn
2.156,00
2.093,00
-48,00
-2,24%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn
19.550,00
19.475,00
-30,00
-0,15%
Ngô
US cent/bushel
400,25
386,75
+3,00
+0,78%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel
563,75
530,00
-3,75
-0,70%

Lúa mạch

US cent/bushel
303,25
290,50
-0,50
-0,17%

Gạo thô

USD/cwt
11,55
11,01
-0,15
-1,34%

Đậu tương

US cent/bushel
1.052,25
972,75
-4,00
-0,41%

Khô đậu tương

USD/tấn
349,10
331,50
+1,40
+0,42%

Dầu đậu tương

US cent/lb
33,68
31,60
-0,37
-1,16%

Hạt cải WCE

CAD/tấn
452,20
461,50
-0,70
-0,15%

Cacao Mỹ

USD/tấn
2.968,00
2.755,00
-46,00
-1,64%

Cà phê Mỹ

US cent/lb
180,05
162,45
+2,50
+1,56%

Đường thô

US cent/lb
14,91
15,17
-0,74
-4,65%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb
142,40
147,25
+0,30
+0,20%
Bông
US cent/lb
60,76
57,30
-0,46
-0,80%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg
-
-
-
-%

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet
319,00
311,50
+5,70
+1,86%

Cao su TOCOM

JPY/kg
208,20
201,60
+2,70
+1,36%

Ethanol CME

USD/gallon
1,48
1,45
+0,04
+2,70%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters. Bloomberg