(VINANET) – Giá hàng hóa trên thị trường thế giới tuần giao dịch kết thúc vào ngày 25/7 (đóng cửa vào rạng sáng 26/7 giờ VN), giá hàng hóa thế giới có nhiều biến động.

Năng lượng

Phiên giao dịch cuối tuần qua, giá dầu thô trên thị trườn thế giới đồng loạt tăng trong bối cảnh hoạt động công nghiệp khởi sắc tại Trung Quốc và châu Âu và căng thẳng tiếp diễn tại Ukraine và khu vực Trung Đông, mặc dù nhu cầu xăng dầu yếu tại Mỹ.

Kết thúc tuần tại New York, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 9/2014 tăng nhẹ 2 US cent lên chốt tuần ở 102,09 USD/thùng, trong khi tại London, giá dầu Brent Biển Bắc giao cùng kỳ cũng tăng 1,32 USD lên chốt tuần ở 108,39 USD/thùng, cao nhất kể từ ngày 10/7.

Trước đó, trong phiên 24/7, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ WTI đã giảm mạnh 1,05 USD/thùng sau khi tăng 73 US cent trong phiên liền trước (23/7).

Tuy đều tăng trong phiên cuối tuần, song tính chung cả tuần, giá hai hợp đồng dầu chủ chốt trên lại biến động trái chiều so với tuần trước đó, với giá dầu WTI giảm 1,21 USD/thùng, trong khi giá dầu Brent lại tăng 1,15 USD/thùng.

Giá dầu trồi sụt trong tuần qua cho thấy phản ứng của thị trường trước các báo cáo trái ngược về lượng dự trữ xăng và dầu thô của Mỹ.

Ngày 23/7, Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA) công bố báo cáo cho biết lượng dự trữ dầu thô của Mỹ đã giảm 4 triệu thùng trong tuần kết thúc ngày 18/7, đánh dấu tuần sụt giảm thứ tư liên tiếp và mức giảm này cũng mạnh hơn mức dự kiến giảm 2,5 triệu thùng do giới phân tích đưa ra. Báo cáo cũng cho hay lượng dầu thô dự trữ tại Cushing, Oklahoma - kho trữ dầu lớn nhất của nước Mỹ - cũng giảm 1,5 triệu thùng.

Ngày 25/7, các quan chức châu Âu đã thảo luận về việc tăng cường trừng phạt kinh tế Nga vì cho rằng, nước này đang ngầm tiếp tay cho phiến quân gây loạn tại miền Đông Ukraine. Tăng áp lực trừng phạt có thể sẽ hạn chế thị trường tiếp cận thị trường dầu của Nga cũng như kéo giảm nguồn cung dầu toàn cầu.

Trong khi đó, tại Trung Đông, cuộc chiến tại Dải Gaza vẫn tiếp diễn, khiến hơn 800 người Palestine và 35 người Israel thiệt mạng và đe dọa đến hoạt động sản xuất và xuất khẩu dầu của khu vực này.

Kim loại quý

Phiên cuối tuần giá vàng tăng trở lại, với mức tăng mạnh nhất 1 tuần qua, khi giảm xuống mức thấp nhất 1 tháng qua trong phiên giao dịch hôm 24/7 trước căng thẳng leo thang giữa Nga và phương Tây về tình hình Ukraine.

Giá vàng giao ngay tăng 0,7% lên 1.301,8 USD/ounce lúc 15h03 tại New York, sau khi giảm gần 1% phiên trước đó, khi chạm mức thấp nhất kể từ 19/6 ở 1.287,46 USD/ounce. Giá vàng giao tháng 8 tăng 12,5USD lên 1.303,3USD/ounce.

Tuy nhiên, trong cả tuần, vàng giảm gần 1%, tuần thứ 2 giảm liên tiếp, trước những diễn biến tích cực của kinh tế Mỹ và Trung Quốc làm giảm tính hấp dẫn của vàng như tài sản trú ẩn an toàn.

Giá vàng đã tăng 8,6% trong năm nay. Cuộc chiến tại dải Gaza trong tháng này đã khiến hơn 800 người Palestine và 35 người Israel thiệt mạng. Trong khi đó, Tổng thống Nga Vladimir Putin đang đối mặt với áp lực ngày càng tăng trong việc tiến hành điều tra vụ rơi máy bay MH17 của hãng hàng không Malaysia Airlines hôm 17/7 tại Ukraine.

Một diễn biến khác, Quỹ tín thác lớn nhất thế giới SPDR hôm 24/7 đã bán ra 3,6 tấn vàng, mức cao nhất trong hơn một tháng qua.

Với các kim loại quý khác, giá bạc, bạch kim và palladium đều giảm. Giá bạc giảm 1,2% trong cả tuần. Tuy nhiên, trong phiên giao dịch ngày 25/7 tăng 1% lên 20,52USD/ounce. Giá bạch kim tăng 0,7% lên 1.471,99USD/ounce, trong khi giá palladium tăng 1% lên 875,75USD/ounce.

Tuần tới, theo các nhà phân tích, sẽ là một tuần có thể có những biến động mạnh lên thị trường vàng do một loạt số liệu kinh tế quan trọng của Mỹ sẽ được công bố, trong đó có báo cáo về thị trường việc làm tháng Bảy và dự báo lần đầu về tăng trưởng GDP quý 2.

Ngoài ra còn có cuộc họp về chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed, Ngân hàng trung ương).

Bên cạnh đó, thị trường vàng vẫn còn được "dựa dẫm" vào một số yếu tố mang tính hỗ trợ, trong đó có những bất ổn tại những khu vực đang diễn ra xung đột và chiến sự như tại Ukraine và khu vực Trung Đông.

Kim loại cơ bản
Giá kẽm đã tăng lên mức cao kỷ lục 35 tháng trong phiên giao dịch cuối tuần qua do đồn đoán nhu cầu kẽm thế giới sẽ vượt nguồn cung. Chì cũng tăng giá mạnh trong năm nay.

Tồn trữ kẽm tại Sở giao dịch Kim loại London đã giảm 30% trong năm nay xuống 653.900 tấn, mức thấp nhất kể từ tháng 12/2010. Dự báo thị trường kẽm thế giới sẽ thiếu hụt tới 154.000 tấn trong năm tới.

Phiên cuối tuần, giá kẽm kỳ hạn 3 tháng tăng 0,1% lên 2.390 USD/tấn. Trong phiên có lúc giá đạt 2.413 USD/tấn, cao nhất kể từ ngày 4/8/2011. Tính từ đầu năm tới nay, giá đã tăng 16%.

Giá cà phê Tây Nguyên lại giảm về 39,1-40,1 triệu đồng/tấn

Trái ngược với hôm qua, sáng nay, giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên lại giảm 400.000 đồng/tấn xuống 39,1-40,1 triệu đồng/tấn.

Giá cà phê Robusta giao tại cảng TPHCM giá FOB hôm nay giảm 16 USD từ 1.992 USD/tấn ngày hôm qua xuống 1.976 USD/tấn.

Cà phê, cacao, đường

Phiên giao dịch cuối tuần, giá cà phê arabica tăng do triển vọng kinh tế Mỹ khả quan hứa hẹn tiêu thụ tăng, trong khi cà phê robusta giảm bởi triển vọng Việt Nam bội thu.

Trên thị trường New York, cà phê arabica kỳ hạn tháng 7 giá tăng 0,85 cent/lb lên 179,15 cent/lb, kỳ hạn giao tháng 9 giá tăng 0,85 cent/lb lên 182,8 cent/lb.

Trong khi đó, lượng cà phê Arabica lưu kho trên sàn ICE New York cũng tăng thêm 3.390 bao trong ngày 24/7 lên 2.476,714 bao.

Trên thị trường London, cà phê Robusta kỳ hạn giao tháng 7 giá giảm 17 USD, tương đương 0,81% xuống 2.024 USD/tấn, trong khi giá giao tháng 9 cũng giảm 16 USD/tấn, tương đương 0,79%, xuống 2.016 USD/tấn.

Sản lượng cà phê của Việt Nam, nước sản xuất hàng đầu thế giới cà phê Robusta, được dự báo đạt kỷ lục trong 12 tháng tới tính từ tháng 10/2015 nhờ áp dụng các biện pháp canh tác cải tiến và thay thế cây cà phê già cỗi bằng giống cây mới.

Sản lượng cà phê năm nay có thể tăng lên mức cao nhất từ trước đến nay 1,87 triệu tấn, theo ước tính trung bình của 9 thương nhân và nhà phân tích trong cuộc khảo sát của Bloomberg, tăng 8,7% so với năm 2013-2014. Năng suất trung bình tăng lên 2,83 tấn/ha, diện tích tăng lên 660.000ha.

Sản lượng và năng suất tăng sẽ củng cố vị trí nhà cung cấp của Việt Nam cho các hãng lớn như Nestle SA và Mondelez International Inc vào thời điểm nhu cầu tiêu thụ nội địa tăng khiến xuất khẩu cà phê của Indonesia, nước sản xuất cà phê lớn thứ 2 tại châu Á, sụt giảm.

Bông
Giá bông đang trong kỳ giảm giá dài nhất 55 năm do những dấu hiệu cho thấy nhu cầu sẽ thấp hơn sản lượng.
Bông kỳ hạn tại New York giảm 3,5% trong tuần qua, là tuần thứ 12 liên tiếp giảm giá, và là kỳ giảm dài nhất kể từ tháng 7/1959.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá 19/7

Giá 26/7

So với 25/7

So với 25/7 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng
103,13
102,09
+0,02
+0,02%

Dầu Brent

USD/thùng
107,24
108,39
+1,32
+1,23%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl
66.160,00
67.090,00
+520,00
+0,78%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu
3,95
3,78
-0,07
-1,72%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

286,03
286,53
+2,85
+1,00%

Dầu đốt

US cent/gallon

284,52
291,57
+4,48
+1,56%

Dầu khí

USD/tấn
884,00
894,75
+6,25
+0,70%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl
82.780,00
83.410,00
+390,00
+0,47%

Vàng New York

USD/ounce
1.311,00
1.305,30
+12,60
+0,97%

Vàng TOCOM

JPY/g
4.273,00
4.266,00
+29,00
+0,68%
Bạc New York
USD/ounce
20,89
20,64
+0,22
+1,08%

Bạc TOCOM

JPY/g
68,30
68,10
+1,10
+1,64%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.

1.489,25
1.478,25
+10,19
+0,69%

Palladium giao ngay

USD/t oz.

881,32
880,38
+9,88
+1,13%

Đồng New York

US cent/lb

318,45
324,05
-2,60
-0,80%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn
6.985,00
7.125,00
-44,50
-0,62%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn
1.981,00
1.997,00
-29,00
-1,43%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn
2.294,00
2.390,00
+2,00
+0,08%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn
22.100,00
22.475,00
+85,00
+0,38%
Ngô

US cent/bushel

378,50
371,75
+2,25
+0,61%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

532,25
538,00
+9,25
+1,75%

Lúa mạch

US cent/bushel

325,25
332,50
+6,50
+1,99%

Gạo thô

USD/cwt
13,13
12,94
-0,15
-1,11%

Đậu tương

US cent/bushel

1.085,25
1.083,50
-1,25
-0,12%

Khô đậu tương

USD/tấn
351,80
350,20
+0,20
+0,06%

Dầu đậu tương

US cent/lb

36,72
36,25
-0,10
-0,28%

Hạt cải WCE

CAD/tấn
443,30
442,50
+1,80
+0,41%

Cacao Mỹ

USD/tấn
3.082,00
3.194,00
-4,00
-0,13%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

172,40
179,15
+0,85
+0,48%

Đường thô

US cent/lb

16,97
17,14
+0,09
+0,53%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

152,60
148,25
-1,55
-1,03%

Bông

US cent/lb

67,74
65,35
-0,70
-1,06%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

-
-
-
-%

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

325,90
325,50
-0,30
-0,09%

Cao su TOCOM

JPY/kg
203,00
204,60
+0,80
+0,39%

Ethanol CME

USD/gallon
1,90
1,94
+0,02
+1,15%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg