(VINANET) – Phiên cuối tuần trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 2/8 giờ VN), giá dầu thô và cà phê giảm, trong khi giá vàng tăng mạnh.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục chịu ảnh hưởng từ yếu tố địa chính trị cộng thêm những thông tin về cung – cầu. Phiên cuối tuần, giá dầu đồng loạt giảm sau thông tin nhà máy lọc dầu CVR tại COffeyville, Kansas buộc phải ngừng hoạt động trong 1 tháng sau vụ hỏa hoạn, khiến nhu cầu tiêu thụ dầu tại Mỹ giảm thấp.

Trên thị trường New York, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 9 giảm 0,3% xuống 97,88 USD/thùng, thấp nhất kể từ ngày 6/2 sau chuỗi giảm 5 ngày liên tiếp. Tính chung trong tuần, dầu Mỹ giảm 6,8%.

Dầu Brent tại London dũng giảm 1,1% xuống 104,84 USD/thùng trên sàn ICE, đánh dấu phiên giảm thứ 4. Dầu Brent giảm 5,6% trong cả tuần.

Các chuyên gia và thương nhân cho biết, có nhiều yếu tố khiến giá dầu giảm liên tục trong tuần qua, từ những trục trặc về hệ thống đường ống dẫn dầu, lọc dầu cho đến vấn đề thiếu nguồn cung do tình hình chiến sự tại Iraq, Libya và Đông Âu.

Giá xăng giao tháng 9 cũng giảm mạnh với mức giảm 1,9% xuống 2,7433 USD/gallon và giá dầu diesel giảm 0,8% xuống 2,8661 USD/gallon.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng phiên cuối tuần tăng mạnh sau số liệu việc làm mới của Mỹ tháng 7 tăng thấp hơn dự đoán, hứa hẹn Fed sẽ tiếp tục duy trì chính sách lãi suất thấp.

Giá vàng đã tăng 1% trong phiên giao dịch 1/8, chấm dứt chuỗi giảm 4 ngày liên tiếp, khi số liệu việc làm phi nông nghiệp đáng thất vọng tại Mỹ dập tắt những đồn đoán về việc Fed sẽ tăng lãi suất sớm hơn dự kiến, đồng thời làm tăng tính hấp dẫn của vàng như tài sản trú ẩn an toàn.

Tuy vậy, giá vàng vẫn giảm 1% cho cả tuần. Hôm thứ 5 (31/7) giá vàng giảm xuống mức thấp nhất 6 tuần khi báo cáo cho thấy kinh tế Mỹ tăng trưởng tốt và mức lương tăng.

Giá vàng tăng sau khi số liệu cho thấy tăng trưởng việc làm tại Mỹ chậm lại trong tháng 7 và tỷ lệ thất nghiệp bất ngờ tăng, cho thấy thị trường việc làm vẫn còn yếu ớt và cho phép Fed duy trì lãi suất thấp trong 1 thời gian nữa.

Các nhà hoạch định chính sách Mỹ cho biết sẽ duy trì lãi suất thấp cho đến khi mức lương tăng trưởng tốt và số người tìm được việc làm tăng lên.

Edward Dempsey, phụ trách đầu tư tại Pension Partners LLC, cho biết, số liệu việc làm cho thấy tăng trưởng kinh tế không đúng với kỳ vọng của thị trường. Mọi người nghĩ rằng số liệu về việc làm là một chỉ số cho thấy lãi suất sẽ chưa tăng.

Bộ Lao động Mỹ cho biết số việc làm phi nông nghiệp tháng 7 tăng thêm 209.000, thấp hơn so với dự đoán 233.000 của các nhà kinh tế. Tỷ lệ thất nghiệp tháng 7 tăng lên 6,2%, cao hơn so với 6,1% trong tháng 6 khi số người tham gia thị trương lao động tăng lên.

Nhu cầu vàng vật chất tại châu Á cũng không tăng bất chấp giá giảm mạnh vào hôm thứ 5 (31/7), theo một thương nhân tại Hong Kong.

Hoạt động mua vàng tại các thị trường vàng vật chất quan trọng như Trung Quốc và Ấn Độ có thể không đủ mạnh để tạo nền cho giá vàng trong năm nay.

Trong khi đó, doanh số bán vàng xu American Eagle của US Mint giảm 40% trong tháng 7 so với cùng kỳ năm ngoái.

So với đầu năm, giá vàng hiện cao hơn khoảng 7%, nhờ giá tăng mạnh trong quý I. Tháng 7, giá vàng giảm 3,4%, mức giảm hàng tháng lớn nhất trong năm nay.

Với các kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,5% xuống 20,24 USD/ounce, giá palladium giảm 0,9% xuống 859 USD/ounce, trong khi giá bạch kim tăng 0,3% lên 1.458 USD/ounce.

Trên thị trường hàng hóa nhẹ, giá cà phê đồng loạt giảm.

Trên thị trường New York, cà phê arabica kỳ hạn giao tháng 9 giá giảm 2,7 cent/lb xuống 192,35 cent/lb, kỳ hạn giao tháng 12 giá giảm 2,65 cent/lb xuống 196,1 cent/lb.

Trên thị trường London, cà phê robusta cũng giảm, với hợp đồng kỳ hạn giao tháng 9 giảm 7 USD/tấn, tương đương 0,33%, xuống 2.097 USD/tấn. Tuy nhiên, kỳ hạn giao tháng 11 giá tăng 4 USD/tấn, tương đương 0,19% lên 2.093 USD/tấn. Kỳ hạn giao tháng 1/2015 giá tăng 9 USD/tấn lên 2.092 USD/tấn.

Nhà xuất khẩu cà phê Brazil Terra Forte đã chốt sản lượng cà phê của Brazil niên vụ 2014/15 đạt 45,78 triệu bao 60 kg/bao, giảm so với dự báo 47,4 triệu bao hồi tháng 2 do hạn hán. Trong khi đó, Citigroup cũng giảm triển vọng sản lượng cà phê Brazil niên vụ 2014/2015 xuống 41,75 triệu bao, giảm 5,6% so với dự báo hồi tháng 4. Dự báo của Citigroup khá trùng hợp với ước tính của Hội đồng Cà phê Brazil (NCC) ở 40-43 triệu bao.

NCC cũng dự báo sản lượng cà phê Brazil năm 2015 có thể đạt “khoảng 40 triệu bao không hơn”.

Như vậy, với việc dự báo sản lượng mùa vụ mới dao động 41-50,5 triệu bao và với sự bất ổn về tỷ lệ cà phê Arabica vụ mới cho đến khi đánh giá được sản lượng đã thu hoạch, thị trường vẫn bất ổn trong ngắn hạn. Tuy nhiên, phần lớn các báo cáo đáng tin cậy cho mức dự báo 48-49 triệu bao trong niên vụ này, giảm 4-6 triệu bao, cộng với 12 triệu bao dự trữ từ vụ trước, hiện vẫn chưa có gì đe dọa đến nhu cầu thị trường do thiếu nguồn cung.

Thời báo Kinh tế Việt Nam đưa tin Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đặt mục tiêu tăng hơn nữa sản phẩm giá trị gia tăng cho ngành cà phê với mục tiêu đến năm 2020 khoảng 25% xuất khẩu cà phê của Việt Nam sẽ ở dạng cà phê hòa tan và đã rang xay. Đây là một con số ấn tượng khi xét đến khối lượng xuất khẩu hàng năm khoảng 26 triệu bao cà phê Robusta của Việt Nam, điều này cũng đặt ra câu hỏi về tính xác thực của con số như vậy trong bối cảnh Việt Nam gần như không có lợi thế trong việc phát triển thị trường tiêu dùng cà phê tại các nước láng giềng.

Hiệp hội Cà phê và Cacao Việt Nam cho biết Việt Nam đã sản xuất khoảng 1,4 triệu tấn hay 23,3 triệu bao 60kg/bao trong niên vụ 2013/14. Vụ thu hoạch niên vụ 2014/15 bắt đầu từ cuối tháng 10 với sản lượng được dự kiến quanh 23 triệu tấn.

Giá cà phê thế giới giảm kéo giá tại Việt Nam giảm theo. Phiên cuối tuần giá cà phê nhân xô các tỉnh Tây Nguyên sau 4 phiên tăng liên tiếp đã đảo chiều, giảm 200.000 đồng/tấn xuống 40,4-41 triệu đồng/tấn.

Giá cà phê Robusta giao tại cảng TPHCM giá FOB hôm nay cũng giảm 7 USD từ 2.064 USD/tấn hôm qua xuống 2.057 USD/tấn.

Trái với thị trường cà phê, giá cacao lên cao nhất 3 năm khi sức mua tăng. Dự báo các nhà sản xuất sôcôla cần tăng lượng lưu kho trong bối cảnh nguồn cung cấp Tây Phi hạn chế.

Lượng hàng lưu kho có thể chỉ đủ để áp ứng nhu cầu trong 6 tháng, trong khi ngành công nghiệp cần lượng hàng lưu kho đủ cho 7-8 tháng, theo Eric Sivry, phụ trách môi giới quyền chọn nông sản tại Marex Spectron Group ở London. Trữ lượng trong kho của sàn ICE giảm 4% trong tháng này, đợt giảm thứ 3 liên tiếp.

Giá cacao giao tháng 12 giao dịch ở 1.978 Bảng Anh (3.343 USD)/tấn trên sàn Liffe, sau khi tăng 1,5% lên 1.982 Bảng Anh, mức cao nhất kể từ 21/7/2011. Hạt cacao giao dịch trên sàn ICE tăng 0,9% lên 3.207 USD/tấn lúc 12h28 chiều hôm 30/7 tại New York.

Bờ Biển Ngà và Ghana, 2 nước sản xuất lớn nhất thế giới, đang dần kết thúc vụ thu hoạch 2013-2014 và thường không bắt đầu vụ mới cho đến tận tháng 10. Bờ Biển Ngà đã bán 1,15 triệu tấn hạt cacao từ vụ thu hoạch mới, theo nguồn thạo tin. Sản lượng cacao của Bờ Biển Ngà niên vụ 2013-2014 ước đạt 1,7 triệu tấn, theo số liệu của Tổ chức Cacao Quốc tế (ICCO).

Ghana cũng bán mùa vụ trước khi thu hoạch và sản xuất 900.000 tấn cacao trong năm 2013-2014, theo ICCO.

Cả Bờ Biển Ngà và Ghana đã bán trước 80% sản lượng mùa vụ, “và cả 2 nước đều cho thấy đã đạt được mục tiêu bán trước sản phẩm trong năm 2014-2015”, Edward George, phụ trách nghiên cứu tại Ecobank Group trụ sở tại Togo, cho biết.

Giá cacao đã tăng 14% trong năm nay tại thị trường London. Sản lượng không đủ đáp ứng nhu cầu trong niên vụ thứ 3 liên tiếp, chuỗi thiếu thụ dài nhất trong 47 năm, theo số liệu của Olam International Ltd và ICCO.

Trên thị trường ngũ cốc, giá ngô kỳ hạn giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 7/2010 trước viễn cảnh vụ mùa bội thu tại Mỹ, nước sản xuất ngô lớn nhất thế giới. Giá đậu nành cũng giảm mạnh nhất trong 4 tuần qua.

Sản lượng ngô sẽ tăng 4,3% lên mức kỷ lục 14,518 triệu bushel, và sản lượng đậu nành sẽ tăng 17% trong năm nay, Linn Group cho biết trong một bản báo cáo. Những cơn mưa trong tuần tới sẽ xoa dịu căng thẳng sau khi lượng mưa thấp hơn thông thường trong tháng 7 làm giảm độ ẩm trong đất, World Weather Inc tại Overland Park, Kansas, cho biết.

Jacquie Voeks, nhà tư vấn thị trường cao cấp tại Peterson Group ở West Bend, Wisconsin, cho biết, những cơn mưa tuần tới củng cố lòng tin về vụ mùa bội thu, nhất là đối với đậu nành, vốn phụ thuộc rất nhiều vào độ ẩm trong tháng 8”.

Giá ngô giao tháng 12 giảm 1,3% xuống gần 3,6225 USD/bushel lúc 13h15 trên sàn Chicago. Trước đó, giá chạm 3,61 USD, mức thấp nhất kể từ 7/7/2010. Trong tháng 7, giá ngũ cốc giảm 14%, mức cao nhất kể từ tháng 9/2011.

Giá đậu nành giao tháng 11 giảm 2,2% xuống 10,585 USD/bushel, mức giảm cao nhất kể từ 30/6. Giá các loại hạt có dầu, sử dụng sản xuất thức ăn chăn nuôi và dầu ăn, giảm 6,5% hồi tháng trước đạt 10,55 USD, chạm mức thấp nhất 45 tháng.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa
ĐVT
Giá 26/7
Giá 4/8
+/-
+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng
102,09
97,88
-0,09
-0,30%

Dầu Brent

USD/thùng
108,39
104,84
-1,04
-1,11%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl
67.090,00
66.540,00
-550,00
-0,82%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu
3,78
3,80
-0,04
-1,12%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon
286,53
274,43
-5,32
-1,90%

Dầu đốt

US cent/gallon
291,57
286,61
-2,38
-0,82%

Dầu khí

USD/tấn
894,75
885,75
-3,75
-0,42%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl
83.410,00
82.810,00
-470,00
-0,56%

Vàng New York

USD/ounce
1.305,30
1.294,80
+09,90
+0,94%

Vàng TOCOM

JPY/g
4.266,00
4.272,00
+17,00
+0,40%

Bạc New York

USD/ounce
20,64
20,37
-0,04
-0,20%

Bạc TOCOM

JPY/g
68,10
67,10
-0,80
-1,18%

Bạch kim giao ngay

USD/t oz.
1.478,25
1.463,69
+3,06
+0,21%

Palladium giao ngay

USD/t oz.
880,38
864,45
-8,43
-0,97%

Đồng New York

US cent/lb
324,05
321,45
-1,65
-0,51%

Đồng LME 3 tháng

USD/tấn
7.125,00
7.074,50
-40,50
-0,57%

Nhôm LME 3 tháng

USD/tấn
1.997,00
1.975,00
-13,00
-0,65%

Kẽm LME 3 tháng

USD/tấn
2.390,00
2.338,00
-22,00
-0,93%

Thiếc LME 3 tháng

USD/tấn
22.475,00
22.450,00
-400,00
-1,75%
Ngô
US cent/bushel
371,75
362,25
-4,75
-1,29%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel
538,00
534,25
+4,00
+0,75%

Lúa mạch

US cent/bushel
332,50
330,75
+0,25
+0,08%

Gạo thô

USD/cwt
12,94
12,79
-0,20
-1,50%

Đậu tương

US cent/bushel
1.083,50
1.058,50
-23,50
-2,17%

Khô đậu tương

USD/tấn
350,20
342,40
-6,40
-1,83%

Dầu đậu tương

US cent/lb
36,25
35,71
-0,69
-1,90%

Hạt cải WCE

CAD/tấn
442,50
434,30
-7,00
-1,59%

Cacao Mỹ

USD/tấn
3.194,00
3.184,00
-2,00
-0,06%

Cà phê Mỹ

US cent/lb
179,15
192,35
-2,70
-1,38%

Đường thô

US cent/lb
17,14
16,35
-0,11
-0,67%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb
148,25
139,35
-1,35
-0,96%
Bông
US cent/lb
65,35
63,27
+0,40
+0,64%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg
-
-
-
-%

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet
325,50
324,10
-0,30
-0,09%

Cao su TOCOM

JPY/kg
204,60
205,80
-0,10
-0,05%

Ethanol CME

USD/gallon
1,94
1,91
+0,01
+0,47%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg