(VINANET) – Trên thị trường thế giới tuần qua, giá vàng tiếp tục giảm do thiếu nhu cầu mua đầu tư đối với các tài sản an toàn. Các thị trường dầu mỏ và kim loại cơ bản biến động, nhưng tính chung trong tuần đã tăng giá. Cà phê, cacao và đường tăng bởi lo ngại về thời tiết ở Brazil.

Phiên giao dịch cuối tuần trên thị trường thế giới (28/3, kết thúc vào rạng sáng 29/3 giờ VN), giá vàng quay đầu tăng trở lại sau khi chạm mức thấp nhất 6 tuần là dưới 1.300 USD/ounce, song tính chung trong tuần vẫn giảm tuần thứ 2 liên tiếp bởi triển vọng kinh tế Mỹ được cải thiện nâng đồng USD tăng giá trở lại khiến các tài sản rủi ro trở nên hấp dẫn hơn là các tài sản an toàn.

Vànggiao ngay tại New York phiên cuối tuần giảm xuống mức thấp nhất kể từ 12/2, 1.285,34 USD/ounce trước khi hồi phục nhẹ lên 1.294,16  USD vào lúc đóng cửa. Tính chung trong tuần, vàng giảm giá khoảng 3%. Hợp đồng giao tháng 4 cũng giảm 90 US cent phiên cuối tuần xuống 1.293,80 USD/ounce. Giá vàng giao ngay trên sàn giao dịch Kitco vào lúc 6h 21 là 1294,90 USD/ounce.

George Gero, phó chủ tịch của công ty thị trường RBC Capital, cho biết: “Các số liệu về niềm tin tiêu dùng giúp lãi suất ở mức thấp, cổ phiếu tăng nhưng lại khiến giá vàng tăng trở lại”.

Thị trường vàng lúc này tập trung vào các yếu tố cơ bản, chứ không vào vấn đề Nga và Crimea như mấy ngày qua. Karim Cherif , chuyên gia phân tích tại Credit Suisse, nói: “Vài ngày qua, người tham gia thị trường đã bắt đầu quay trở lại với những vấn đề cơ bản của kinh tế mà bớt tập trung vào tình tại Nga hay Crimea. Trừ phi có mối lo ngại về nền kinh tế Nga, không thì giá cả sẽ tiếp tục giảm xuống”.

Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng nhu cầu vàng vật chất có thể sẽ tăng lên bất chấp giá giảm mạnh gần đây, song nhìn chung các nhà kinh doanh vẫn thận trọng bởi người tiêu dùng chưa chắc chắn về xu hướng giá khi vàng thấp như hiện nay. Chỉ số đo độ hứng thú của nhà đầu tư với vàng vẫn không đổi từ ngày 27/3 sau 2 ngày giảm liên tiếp.

Giá vàng tại Trung Quốc, nước tiêu thụ lớn nhất thế giới, hiện vẫn thấp hơn giá giao ngay tai Mỹ, cho thấy nhu cầu mới chưa mạnh.

Lãi suất thấp – giảm chi phí cơ hội nắm giữ vàng so với các tài sản khác – là yếu tố quan trọng đẩy giá vàng lên cao trong những năm gần đây.

Ngoài ra, platinum tăng 0,86% lên 1.403,75 USD/ ounce, palladium tăng 2,5% lên 771,75 USD/ ounce do đình công tại Nam Phi diễn ra trong 10 tuần liên tiếp. Bạc tăng 0,5% lên 19,77 USD/ ounce.

Tâm điểm tiếp theo của thị trường sẽ là báo cáo việc làm phi nông nghiệp vào ngày 4/4. Số liệu sẽ cho thấy tình trạng của nền kinh tế.

Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng vọt trước nhận định dựtrữ dầu của Mỹ giảm, căng thẳng leo thang giữa Nga và phương Tây.

Giá dầu giao tháng 5 tăng 0,4% lên 101,67 USD/thùng trên sàn giao dịch Nymex. Giá dầu của Mỹ tăng 2,2% trong cả tuần, mạnh nhất kể từ ngày 7/2.

Đây là mức giao cao nhất kể từ ngày 7/3.

Theo các nhà phân tích, việc giá dầu WTI giảm thấp so với giá dầu Brent trong vài năm gần đây là do thiếu các kênh vận chuyển tới các nhà máy lọc dầu. Như vậy nguyên nhân khiến dự trữ dầu ở Cushing dư thừa không phải bởi tiêu thụ thấp. Và với việc hệ thống ống dẫn dầu mới mở vào tháng 1, nối từ khu dự trữ dầu tới Gulf Coast thì dầu dư thừa ở Cushing đang giảm dần.

Ba ngày đóng cửa kênh vận chuyển Houston Shipping Channel đã đẩy giá dầu lên cao trong những ngày đầu tuần. Sau ngày 26/3, tâm điểm của thị trường và nguồn cung tại Cushing, Okla – kho dự trữ dầu chính của Mỹ - giảm.

Theo Ủy ban thông tin năng lượng (EIA), tính đến tuần trước, nguồn cung dầu tại Cushing đã giảm 8 tuần liên tiếp.

Tuy nhiên, một số nhà quan sát thị trường cho biết, tập trung vào nguồn cung tại Cushing là sai lầm, bởi vì dầu sẽ được vận chuyển tới kho lưu trữ tại Gulf Coast. Trong khi đó, theo EIA, tuần trước, nguồn cung đầu ở Gulf Coast đang ở mức cao nhất từ trước đến nay.

Lo ngại về địa chính trị cũng giúp đẩy giá hợp đồng dầu có kỳ hạn lên cao do các thương nhân đang khá do dự để đặt cược vào việc giá dầu giảm trong bối cảnh căng thẳng gia tăng giữa Nga và phương Tây vào cuối tuần.

Giá xăng RBOB giao tháng 4 giảm 0,2% xuống 2.9375 USD/ gallon và tăng 1% trong cả tuần. Giá dầu diesel tăng 0,4% lên 2,9579 USD/gallon và tăng 1,3% trong cả tuần.

Trên thị trường London, giá dầu Brent phiên cuối tuần giảm 5 US cent xuống 107,78 USD /thùng. Tuy nhiên tính chung trong cả tuần Brent vẫn tăng gần 1% và là tuần đầu tiên tăng giá kể từ tháng 2.

Khí gas tuần qua tăng giá mạnh nhất trong vòng 1 tháng do thời tiết lạnh hơn dự báo, mặc dù sắp bước sang tháng 4 – mùa nhu cầu nhiên liệu giảm dần. Phiên cuối tháng, khhí gas tại New York giá giảm 1,2 US cent với hợp đồng kỳ hạn tháng 5. Tính chung trong tuần, khí tăng giá 4,9%, và từ đầu năm tới nay tăng 7%.

Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng tại London vừa qua tuần tăng mạnh nhất trong vòng 6 tháng, bởi hy vào những chương trình kích thích ở Trung Quốc – nước sử dụng kim loại lớn nhất thế giới.

Những lo ngại về nhu cầu của Trung Quốc đã cầm chân các nhà đầu tư kim loại cơ bản ở ngoài thị trường trong tháng này, khiến giá đồng giảm xuống thấp nhất kể từ tháng 7/2010.

Tuy nhiên, thời tiết bắt đầu ấm lên thúc đẩy đơn đặt hàng từ các lĩnh vực, từ sản xuất tới xây dựng, và cam kết hỗ trợ tăng trưởng của lãnh đạo Trung Quốc đã kéo giá đồng tăng trở lại.

Kết thúc tuần qua, giá đồng tại London giảm từ mức thấp nhất 3 năm rưỡi là 6.321 USD/tấn hôm 19/3. Tính chung trong tuần qua, đồng tăng giá 2,2%, mạnh nhất kể từ tháng 9 năm ngoái.

Trên thị trường nông sản, giá cacao tiếp tục tăng do hoạt động mua mạnh, bởi lo ngại về thời tiết có thể làm giảm sản lượng cacao của Brazil và một số quốc gia khác.

Đường tăng phiên thứ 5 liên tiếp lên mức cao nhất 2 tuần cũng với lý do như cacao.

Đặc biệt, cà phê arabica tăng mạnh 4,25 US cent hay 2,4% phiên cuối tuần, lên 1.806 USD/lb. Tính chung trong tuần, arabica tăng 5,5%, sau khi giảm 13,5% tuần trước.

Thời tiết ở Brazil đã tác động tới giá cà phê từ nhiều tháng nay, đẩy giá theo xu hướng tăng lên.

Cà phê robusta kỳ hạn tại London cũng tăng 13 USD hay 0,6% lên 2.096 USD/tấn.

Giá cao su trái lại giảm trong cả phiên cuối tuần và tuần qua, do lo ngại về nhu cầu ở Trung Quốc.

Phiên cuối tuần, giá cao su kỳ hạn tháng 9 tại Tokyo giảm 4,1 yen xuống 232,8 yen/kg. Tính chung trong tuần giá giảm 0,8%.

Trên thị trường ngũ cốc, giá lúa mì đang kỳ tăng giá dài nhất kể từ tháng 10 do khô hạn đe dọa sản lượng lúa mì vụ đông của Mỹ.

Giá bông tăng mạnh phiên cuối tuần, và là tuần thứ 3 liên tục tăng giá do lo ngại nguồn cung bị thắt chặt ở Mỹ.

Bông kỳ hạn tháng 5 phiên cuối tuần tăng 1,18 US cent hay 1,3% lên 93,74 US cent/lb. Trong tuần có lúc giá đạt kỷ lục cao 2 năm là 97,35 US cent/lb.

Dự báo nguồn cung bông trong tương lai gần ở Mỹ - nước xuất khẩu lớn nhất thế giới – sẽ khan hiếm do thời tiets.

Tuy nhiên, trên phạm vi toàn cầu, thị trường bông không quá thiếu hàng bởi Trung Quốc cho biết đang giảm giá bán bông từ kho dự trữ của mình ra thị trường nội địa để giảm bớt lượng tồn trữ - hiện đang rất cao.

Trung Quốc đã mua bông dự trữ từ năm 2011 khi giá nội địa cao hơn giá thế giới, và kết quả là trữ được một lượng bông lớn.

Dự trữ bông thế giới dự báo sẽ tăng trở lại vào cuối tháng 7 sau vụ thu hoạch bội thu.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa
ĐVT
Giá
+/-
+/- (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
101,67
0,00
0,00%
Dầu Brent
USD/thùng
108,07
+0,24
+0,22%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
66.620,00
+460,00
+0,70%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
4,49
-0,04
-0,77%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
293,75
0,00
0,00%
Dầu đốt
US cent/gallon
295,79
0,00
0,00%
Dầu khí
USD/tấn
903,00
+3,75
+0,42%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
79.100,00
+340,00
+0,43%
Vàng New York
USD/ounce
1.294,30
0,00
0,00%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.286,00
+21,00
+0,49%
Bạc New York
USD/ounce
19,79
0,00
0,00%
Bạc TOCOM
JPY/g
65,80
+0,40
+0,61%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz.
1.408,88
+9,32
+0,67%
Palladium giao ngay
USD/t oz.
774,75
+15,60
+2,05%
Đồng New York
US cent/lb
1.294,30
0,00
0,00%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
4.286,00
+21,00
+0,49%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
19,79
0,00
0,00%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
65,80
+0,40
+0,61%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
1.408,88
+9,32
+0,67%
Ngô
US cent/bushel
492,00
0,00
0,00%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
695,50
-15,00
-2,11%
Lúa mạch
US cent/bushel
402,00
-4,75
-1,17%
Gạo thô
USD/cwt
15,51
+0,04
+0,26%
Đậu tương
US cent/bushel
1.436,50
0,00
0,00%
Khô đậu tương
USD/tấn
468,40
-2,10
-0,45%
Dầu đậu tương
US cent/lb
40,48
+0,05
+0,12%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
453,50
-5,30
-1,16%
Cacao Mỹ
USD/tấn
2.983,00
+28,00
+0,95%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
180,60
+4,25
+2,41%
Đường thô
US cent/lb
17,98
+0,11
+0,62%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
150,50
+0,25
+0,17%
Bông
US cent/lb
93,74
+1,18
+1,27%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
1.027,00
0,00
0,00%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
334,40
-1,10
-0,33%
Cao su TOCOM
JPY/kg
233,90
-0,10
-0,04%
Ethanol CME
USD/gallon
2,61
+0,07
+2,68%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg