(VINANET) – Giá hàng hóa trên thị trường thế giới phiên giao dịch đầu tuần 14/4 (kết thúc vào rạng sáng 15/4 giờ VN) tăng lên mức cao nhất gần 6 tuần do lo ngại căng thẳng giữa Nga và Ucraina sẽ hạn chế nguồn cung nickel và lúa mì, và ảnh hưởng tới tâm lý của các nhà đầu cơ. Giá dầu, vàng và cà phê tăng, nhưng một số hàng hóa khác như cao su giảm. Kim loại cơ bản biens động.
Giá dầu thô đảo chiều tăng trở lại trong phiên giao dịch đầu tuần 14/4 (kết thúc vào rạng sáng 15/4 giờ VN) do căng thẳng leo thang giữa Ukraine và Nga - nước xuất khẩu năng lượng lớn nhất thế giới đã đẩy giá dầu tăng cao. Giá dầu tai
Dầu thô ngọt nhẹ tại New York kỳ hạn tháng 5 giá tăng 31 US cent lên 104,05 USD/thùng, cao nhất kể từ ngày 3/3. Khối lượng giao dịch cao hơn 18% so với mức trung bình 100 ngày. Dầu Brent tại London cùng kỳ hạn giá tăng 1,74 USD/thùng lên 109,07 USD/thùng, cao nhất kể từ ngày 4/3. Khối lượng giao dịch cao hơn 27% so với mức trung bình 100 ngày.
Giá dầu tăng cao do căng thẳng lại tái diễn giữa Ukraine và Nga cũng như nguồn cung dầu tăng lên.
Giá kim loại cơ bản cũng tăng bởi căng thẳng trở lại Ukraine thúc đẩy giới đầu tư mua vàng trong khi đó. Đặc biệt lo ngại về nguồn cung đã nâng giá palladium lên mức đỉnh trong 2,5 năm.
Giá vàng cũng tăng lên mức cao nhất 3 tuần. Giá vàng kỳ hạn giao tháng 6 trên sàn Comex tăng 8,50 USD/ounce lên 1.327,60 USD/ounce. Khối lượng giao dịch thấp hơn khoảng 50% so với mức trung bình 30 ngày.
Sự hấp dẫn của vàng trong vai trò là một tài sản trú ẩn tăng lên trong bối cảnh tình hinh bạo lực gia tăng giữa phe ủng hộ Nga và lực lượng chính phủ Ukraine cũng như tin tức rằng, một máy bay chiến đấu của Nga đã bay lòng vòng ở độ tầm thấp với cự ly gần tàu Mỹ ở Biển Đen vào cuối tuần qua.
Với các kim loại quý khác, bạch kim tăng 0,7% lên 1.460,40 USD/ounce. Bạc tăng 1 xu lên 19,96 USD/ ounce. Palladium tăng 1,2% lên 809,75 USD/ounce, đánh dấu phiên thứ 5 tăng liên tiếp trước lo ngại về nguồn cung trong bối cảnh Mỹ áp dụng các biện pháp trừng phạt mới lên nhà sản xuất hàng đầu của Nga cũng như các vụ đình công kéo dài tại mỏ khai thác ở Nam Phi.
Trên thị trường kim loại cơ bản, giá đồng trong ba tháng giảm nhẹ trên sàn LME giảm nhẹ 0,05% ở mức 6.667USD/tấn. Giá kim loại này đã hồi phục kể từ mức thấp 6.321USD/tấn trong tháng 3, khi những lo ngại về tăng trưởng và thắt chặt tín dụng ở Trung Quốc.
Giá thiếc tăng 0,32% lên mức 23.450 USD/tấn sau khi số liệu cho thấy số lượng xuất khẩu thiếc tinh chế từ nước xuất khẩu hàng đầu Indonesia đã giảm xuống 5.847 tấn trong tháng 3, giảm 27% so với cùng kỳ năm ngoái. Giá kẽm tăng 1,4% lên mức 2.054 USD/tấn và tăng thêm 0,95% lên 2.120 USD vào thời điểm đóng cửa. Giá nhôm giảm 0,1% xuống mức 1.882 USD/tấn.
Giá nickel chạm mức cao nhất trong gần 14 tháng trong khi giá kẽm tăng 1,4%.
Chính phủ Indonesia ban hành lệnh cấm xuất khẩu quặng nickel vào giữa tháng 1 nhằm tăng giá trị gia tăng chế biến khoáng sản trong nước. Điều này đã khiến giá nickel trong 3 tháng qua trên sàn London tăng 28% trong năm nay.
Bộ tài nguyên mỏ của Indonesia cho biết, tổng kim ngạch xuất khẩu quặng nickel năm ngoái khoảng 64,8 triệu tấn, và sẽ giảm 94% xuống 3,5 triệu tấn trong năm nay.
Giá cao su Tocom đã giảm liên tiếp trong 1 tuần gần đây do lo ngại tốc độ tăng trưởng chậm từ cả Trung Quốc và Mỹ có thể ảnh hưởng đến cầu cao su.
Giá cao su giao tháng 9 trên sàn Tocom tại Tokyo phiên vừa qua giảm 1,9 yên, tương đương 0,85% xuống 221,2 yên/kg. Giá cao su giao tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hoá Thượng Hải giảm 200 nhân dân tệ, tương đương 1,3% so với phiên đóng cửa cuối tuần trước xuống 14.945 nhân dân tệ/tấn.
Thị trường tiếp tục chịu áp lực bởi thông tin Thái Lan có kế hoạch bán ra 200.000 tấn cao su từ kho dự trữ quốc gia nhằm bù đắp sự thiếu hụt sản lượng do nông dân ngừng khai thác mủ trong mùa khô.
Trên thị trường cà phê, giá arabica tại New York tăng trở lại sau phiên giảm khá mạnh cuối tuần trước. Cụ thể kỳ hạn giao tháng 5 giá tăng 1,78% lên 204,85 cent/lb., kỳ hạn tháng 7 tăng 1,86% lên 207,4 cent/lb. Các kỳ hạn khác giá đều tăng trên 1,8%.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
103,33
|
-0,41
|
-0,40%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
108,58
|
-0,49
|
-0,45%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
66.010,00
|
+470,00
|
+0,72%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
4,56
|
-0,00
|
-0,04%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
302,65
|
-1,19
|
-0,39%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
297,06
|
+3,74
|
+1,28%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
913,00
|
+3,00
|
+0,33%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
79.220,00
|
+470,00
|
+0,60%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.319,00
|
-1,50
|
-0,11%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.333,00
|
-5,00
|
-0,12%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
19,89
|
-0,06
|
-0,28%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
65,70
|
-0,30
|
-0,45%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.455,38
|
-9,50
|
-0,65%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
795,76
|
-13,99
|
-1,73%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
302,90
|
-1,25
|
-0,41%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.667,00
|
-3,00
|
-0,04%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.882,00
|
-2,00
|
-0,11%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.053,50
|
+26,00
|
+1,28%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
23.425,00
|
+50,00
|
+0,21%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
507,25
|
-2,00
|
-0,39%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
686,00
|
-0,75
|
-0,11%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
354,50
|
-3,00
|
-0,84%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
15,41
|
-0,02
|
-0,10%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.463,75
|
+0,25
|
+0,02%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
468,80
|
+0,20
|
+0,04%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
42,40
|
-0,06
|
-0,14%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
472,60
|
-0,40
|
-0,08%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.996,00
|
-3,00
|
-0,10%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
207,40
|
+3,85
|
+1,89%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
17,32
|
-0,14
|
-0,80%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
163,15
|
-1,85
|
-1,12%
|
Bông
|
US cent/lb
|
92,28
|
0,00
|
0,00%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
1.027,00
|
0,00
|
0,00%
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
323,30
|
-5,00
|
-1,52%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
215,60
|
+1,60
|
+0,75%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,20
|
0,00
|
+0,05%
|
T.Hải
Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg