• Dầu thô Mỹ giảm giá do dự trữ bất ngờ tăng
  • Dầu Brent tăng sau số liệu khả quan từ Trung Quốc và căng thẳng ở Iran
  • Lúa mì đạt kỷ lục cao nhất 4 tháng rưỡi, vàng tiếp tục tăng
  • Cacao, đường thô thấp nhất 3 tuần

(VINANET) – Giá ngũ cốc kỳ hạn phiên giao dịch vừa qua (kết thúc vào rạng sáng 2/2 giờ VN) tăng không đủ bù lại cho giá dầu Mỹ và cacao giảm, khiến chỉ số giá hàng hóa nói chung giảm phiên thứ 3 liên tiếp.

Tuy nhiên, đồng USD giảm giá trở lại và các số liệu sản xuất toàn cầu khả quan là cơ sở để một số nhà phân tích hy vọng giá nguyên liệu có thể đang hồi phục trở lại.

Dầu thô Mỹ chốt phiên giảm giá sau báo cáo cho thấy dự trữ xăng và dầu thô của nước tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới này đang gia tăng. Dầu thô Brent tăng bởi số liệu sản xuất của Mỹ và Trung Quốc bất ngờ tăng mạnh, và lo ngại về khả năng gián đoạn cung dầu giữa Iran và phương Tây.

Trên thị trường nông sản, lúa mì đạt kỷ lục cao 4 tháng rưỡi, và đậu tương và ngô cũng tăng giá, hồi phục từ chỗ giảm giá mạnh hôm đầu tuần.

Tuy nhiên, cacao giảm mạnh, đường thô cũng giảm giá. Cả hai nông sản này giảm xuống mức thấp nhất 3 tuần do thiếu sự chắc chắn về triển vọng gần hạn của hai mặt hàng này.

Trên thị trường kimi loại, giá vàng tiếp tục xu hướng tăng sau khi tăng mạnh nhất 32 năm trong tháng 1, bởi đồng euro hồi phục so với USD nhờ niềm hy vọng rằng chính phủ Hy Lạp sẽ sớm đạt được thỏa thuận với các chủ nợ. Đồng cũng tăng giá.

Chỉ số giá 19 nguyên liệu CRB Thomson Reuters Jefferies giảm 0,25% trong phiên giao dịch vừa qua và giảm gần 2% so với phiên giao dịch cuối tuần trước (27/1).

Các nhà phân tích dự báo giá hàng hóa sẽ hồi phục nếu USD tiếp tục giảm giá, và số liệu kinh tế thế giới tiếp tục khả quan.

Đặc biệt, kinh tế Trung Quốc dự kiến sẽ tăng trưởng với những biện pháp kích thích sau những số liệu đáng thất vọng những tháng gần đây. Ngoài vị trí là nước nhập khẩu kim loại lớn nhất thế giới, Trung Quốc còn là nước nhập khẩu lớn đối với hầu hết các hàng hóa lớn.

Một số nhà đầu tư cũng hy vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ thực hiện đợt mua trái phiếu chính phủ thứ 3, hay còn gọi là chương trình nới lỏng định lượng, ngay trong năm nay nếu nền kinh tế Mỹ vẫn hồi phục chậm.

Chương trình nới lỏng định lượng thứ 3 của ngân hàng Mỹ (QE3) có thể khiến USD giảm giá hơn nữa và đẩy giá hàng hóa và các tài sản khác tăng lên.

Thị trường hàng hóa năm 2010 đã được kích thích tăng mạnh nhờ chương trình QE2, khi Fed mua lượng trái phiếu trị giá 600 triệu USD. Chương trình này đã kết thúc vào tháng 6/2011.

Dầu thô tại New York kết thúc phiên giao dịch giảm giá gần 1% xuống 97,61 USD/thùng, sau khi số liệu từ Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho thấy dự trữ dầu Mỹ tăng 4 triệu thùng trong tuần qua.

Dầu Brent London tăng một nửa phần trăm lên 111,56 USD bởi các nhà hoạch định chính sách Mỹ xem xét đưa thêm các biện pháp hạn chế nguồn thu nhập từ dầu của Iran để trừng phạt việc Tehran phát triển chương trình hạt nhân.

Lúa mì Mỹ đạt mức giá cao kỷ lục chưa từng có kể từ giữa tháng 9, là phiên thứ 2 liên tiếp tăng giá mạnh, sau khi thời tiết giá lạnh ở châu Âu đe dọa sản lượng lúa mì vụ đông của khu vực này, và có thể sẽ khiến Nga phải hạn chế xuất khẩu ngũ cốc.

Lúa mì kỳ hạn tại Chicago kết thúc phiên giao dịch ½ tăng 1,2% lên 6,74-1/4 USD/bushel sau khi đạt kỷ lục cao 4 tháng rưỡi là 6,83 USD.

Trên thị trường vàng, giá vàng giao ngay tăng 0,4% lên sát 1.745 USD/ounce . Vàng giao ngay đã tăng 10% trong tháng 1 và trở thành tháng tăng giá mạnh nhất kể từ 1980.

Giá hàng hóa thế giới

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/-(%)

+/-(so với đầu năm)

Dầu thô WTI

USD/thùng

 97,44

-1,04

-1,1%

 -1,4%

Dầu thô Brent

 USD/thùng

 0,89

 0,8%

4,2%

 

Khí thiên nhiên

 USD/gallon

2,382

 -0,121

-4,8%

-20,3%

Vàng giao ngay

 USD/ounce

 1747,10

 9,30

 0,5%

 11,5%

Vàng kỳ hạn

USD/ounce

 1743,30

 6,11

 0,4%

 11,5%

Đồng Mỹ

US cent/lb

 384,20

 5,20

 1,4%

 11,8%

Dollar

 

 78,916

 -0,372

-0,5%

 -1,6%

CRB

 

311,530

 -0,780

-0,3%

2,0%

Ngô Mỹ

 US cent/bushel

642,00

 3,00

 0,5%

 -0,7%

Đậu tương Mỹ

 US cent/bushel

16,25

 1,4%

1,4%

 

Lúa mì Mỹ

US cent/bushel

674,25

 8,25

 1,2%

3,3%

Cà phê Mỹ

 US cent/lb

214,10

-0,95

-0,4%

 -6,2%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2225,00

 -66,00

-2,9%

5,5%

Đường Mỹ

US cent/lb

 23,59

-0,05

-0,2%

1,5%

Bạc Mỹ

 USD/ounce

 33,807

0,545

 1,6%

 21,1%

Bạch kim Mỹ

USD/ounce

1623,20

35,10

 2,2%

 15,5%

Palladium Mỹ

USD/ounce

696,70

10,35

 1,5%

6,2%

(T.H – Reuters)