* Dầu mỏ và các hàng hóa khác chịu áp lực giảm giá do triển vọng kinh tế khu vực đồng Euro
    * Chỉ số USD tăng, Euro giảm cũng do khu vực đồng Euro
    * Giá xăng Mỹ tăng do hoạt động lọc dầu trục trặc

(VINANET) - Dầu mỏ và nông sản giảm giá mạnh trong phiên giao dịch đóng cửa 23/5 trên thị trường thế giới (rạng sáng 24/5 giờ Việt Nam), do lo ngại về khủng hoảng nợ ở khu vực đồng Euro khiến các nhà đầu tư chuyển từ hàng hóa sang các hình thức tài sản khác.

Đồng euro đã giảm xuống mức thấp nhất trong hai tháng so với đồng USD kích thích hoạt động bán tháo.

Chỉ số Reuters-Jefferies CRB, chỉ số tham khảo cho thị trường hàng hóa, giảm 1%, cổ phiếu cũng mất giá mạnh sau khi USD tăng lên mức cao kỷ lục 2 tháng so với Euro.

Ngoài mối lo về thâm thủng ngân sách của Hy Lạp và Tây Ban Nha, nay còn xuất hiện nỗi lo mới về Italia.

Tuy nhiên, giá xăng tại Mỹ tăng mạnh sau khi một cơ sở sản xuất xăng Canada phải đóng cửa ngừng sản xuất.

Đà phục hồi kinh tế của Mỹ, quốc gia tiêu thụ dầu mỏ lớn nhất thế giới, bất ổn và nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu có thể giảm đang chi phối thị tường dầu thô.

Các thương gia đang chờ đợi cuộc họp cấp bộ trưởng một năm hai lần của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) dự kiến diễn ra tại thủ đô Vienna, Áo vào ngày 8/6 tới. OPEC đang cung cấp khoảng 40% lượng dầu mỏ trên toàn cầu.

Lo ngại về triển vọng kinh tế lại hậu thuẫn giá vàng, bất chấp đồng USD tăng giá. Kim loại quý này lại trở nên hấp dẫn khi mà mối lo khủng hoảng nợ ở Châu Âu lan rộng.

Tổ chức xếp hạng Fitch đã cắt giảm tín dụng của Hy Lạp vào cuối tuần qua. Vàng tiếp tục được giới đầu tư quay lại khi có những nghi ngờ về các biện pháp “thắt lưng buộc bụng” của Tây Ban Nha và mối quan tâm mới vào Italy khi bị hạ triển vọng tín dụng.

Trong phiên giao dịch vừa qua, giá vàng giao ngay đã có lúc tăng lên 1.517,50 USD/ounce, mức cao nhất kể từ ngày 11/5. Chốt phiên giá vàng tăng khoảng 0,5% ở mức 1.515,29 USD/ounce. Giá vàng kỳ hạn giao tháng 6 đã tăng 6,50 USD lên 1.515,40 USD/ounce, sau khi chạm mức cao nhất trong gần hai tuần qua ở mức 1.519 USD/ounce.

Không chỉ kinh tế Mỹ và Châu Âu gây lo lắng, mà các chỉ số kinh tế Trung Quốc cũng đang gây hoang mang cho các nhà đầu tư.

Chỉ số quản lý sản xuất (PMI) sơ bộ của Trung Quốc do HSBC phát hành tụt xuống mức thấp nhất trong 10 tháng, còn 51,1 điểm trong tháng 5. Chỉ số này là thước đo của hoạt động sản xuất trên toàn quốc gia, đã đạt 51,8 điểm trong tháng trước.

Ông Qu Hongbin, kinh tế trưởng phụ trách Trung Quốc của HSBC cho biết, các nhà sản xuất tiếp tục giảm hàng tồn kho giữa lúc hoạt động kinh doanh mới phát triển chậm, dẫn đến tăng trưởng sản xuất xuống mức thấp nhất trong 10 tháng. Tuy nhiên, không cần quá lo lắng về sự suy giảm đó, bởi chỉ số PMI hiện hành vẫn có khả năng hỗ trợ mức tăng trưởng 13% của sản xuất công nghiệp và 9% của GDP. PMI trên 50 điểm vẫn cho thấy sự mở rộng sản xuất.

Ông Qu nói thêm rằng, Bắc Kinh đang tập trung vào hoạt động chống lạm phát, và ông dự kiến, Chính phủ sẽ tiếp tục các chính sách thắt chặt trong những tháng tới.

Trên thị trường nông sản, dầu cọ kỳ hạn tại Malaysia giảm giá hơn 1% trong phiên giao dịch vừa qua. Trong khi đó, ngô và lúa mì biến động thất thường do lo ngại về thời tiets ở các khu vực trồng trọt lớn.

Trên thị trường kim loại, đồng giảm giá 3% do thiếu niềm tin vào tăng trưởng của Trung Quốc.

Đường giảm giá mạnh, giảm 4% vào lúc đóng cửa giao dịch, do giá dầu giảm và các nhà đầu tư chuyển hướng sang USD.

Cacao giảm xuống mức thấp nhất nhiều tháng, cà phê robusta cũng giảm mạnh, song cà phê arabica lại tăng giá sau khi khi giá đã giảm 15% từ mức đỉnh cao 34 năm hôm 3/5.

Giá hàng hóa thế giới:

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/-(%)

+/-(so theo năm)

Dầu thô WTI

USD/thùng

97,55

-2,54

-2,6%

6,8%

Dầu thô Brent

 USD/thùng

109,85

-2,54

-2,3%

 15,9%

Khí thiên nhiên

 USD/gallon

4,335

0,105

 2,5%

 -1,6%

Vàng giao ngay

 USD/ounce

1516,60

 7,70

 0,5%

6,7%

Vàng kỳ hạn

USD/ounce

1516,35

 8,96

 0,6%

6,8%

Dollar

 

 76,102

0,667

 0,9%

 -3,7%

CRB

 

336,880

 -4,680

-1,4%

1,2%

Ngô Mỹ

 US cent/bushel

752,75

-5,50

-0,7%

 19,7%

Đậu tương Mỹ

 US cent/bushel

 1373,50

-6,50

-0,5%

 -1,5%

Lúa mì Mỹ

US cent/bushel

802,50

-3,50

-0,4%

1,0%

Cà phê Mỹ

 US cent/lb

 262,60

 3,40

 1,3%

9,2%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2878,00

 -37,00

-1,3%

 -5,2%

Đường Mỹ

US cent/lb

21,65

-0,90

-4,0%

-32,6%

Bạc Mỹ

 USD/ounce

 35,085

 -0,002

 0,0%

 13,4%

Bạch kim Mỹ

USD/ounce

1756,00

 -13,40

-0,8%

 -1,2%

Palladium Mỹ

USD/ounce

 733,25

-2,25

-0,3%

 -8,7%

Đồng Mỹ

US cent/lb

 398,30

 -13,85

-3,4%

-10,4%

Đồng LME

USD/tấn

 8835,00

40,00

+0,45%

 -8,3%

(T.H – Tổng hợp từ Reuters, Bloomberg)