* Giá dầu thô ngọt nhẹ trên thị trường Mỹ vượt 100 USD/thùng, lúa mì và đồng đều tăng 2%
    * CRB tăng mạnh nhất trong tuần
    * Thị trường chờ đợi thông báo về thất nghiệp ở Mỹ

(VINANET) - Hàng hóa thế giới tăng giá mạnh vào sáng nay, với mức tăng cao nhất trong vòng 1 tuần, do giá dầu tăng sau khi dự trữ của Mỹ giảm, và USD giảm giá thúc đẩy hoạt động mua hàng hóa vào.

Giá dầu thô Mỹ tăng vượt 100 USD/thùng lần đầu tiên trong 5 phiên giao dịch. Đồng và lú mì kỳ hạn tăng giá đồng loạt 2%.

Chỉ số giá 19 nguyên liệu Reuters-Jefferies CRB tăng 1,6%, vượt xa mức tăng 0,7% của phiên 24/5. Đây là mức tăng mạnh nhất trong 1 tuần. Nhưng tính từ đầu tháng, CRB vẫn giảm 7%.

USD giảm giá so với USD khích lệ hoạt động mua hàng hóa vào.

Dầu tăng giá sau khi số liệu của chính phủ Mỹ cho thấy dự trữ các sản phẩm chưng cất giảm mạnh hơn dự báo.

Các nhà phân tích nhận định giá dầu thế giới vẫn sẽ duy trì xu hướng tăng lên, một phần do những biến động không ngừng trong hoạt động sản xuất dầu thô tại khu vực Trung Đông và Bắc Phi.

Nhu cầu dầu mỏ toàn cầu rất lớn, đặc biệt là tại các thị trường mới nổi, trong khi hoạt động sản xuất dầu tại Libya lại đang bị gián đoạn do những bất ổn chính trị. Điều này đã khiến hai ngân hàng đầu tư của Mỹ là Goldman Sachs và Morgan Stanley mới đây đã nâng mức dự báo về giá dầu Brent chuẩn trong năm 2012 từ 105 USD/thùng lên 130 USD/thùng.

Giá dầu tăng lên mức cao nhất trong vòng 2 tuần do các số liệu thống kê của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho thấy dự trữ xăng và dầu diezel giảm mạnh hơn nhiều so với dự kiến.

Cao su tăng giá mạnh, với hợp đồng kỳ hạn tháng 11 tại Tokyo đạt 389,1 Yen/kg.

Cao su kỳ hạn tháng 9 tại Thượng Hải tăng 680 NDT lên 32.295 NDT (4.969,555 USD)/tấn.

Đường, cà phê và cacao cũng đồng loạt tăng giá, do làn sóng mua vào mạnh mẽ.

Đường kỳ hạn tăng giá hơn 4%, được hỗ trợ bởi giá dầu và ngô tăng.

Cacao tăng giá trở lại từ mức thấp nhất 6,5 tháng.

Lúa mì Mỹ tăng giá sau 4 phiên liên tiếp giảm, do thời tiết xấu ở một số khu vực. Tây Âu bị khô hạn, trong khi Mỹ và Canada lại bị lũ lụt.

Khô hạn ở Trung Quốc cũng gây tâm lý hoang mang cho các nhà đầu tư.

Miền Trung Trung Quốc đang trải qua đợt khô hạn nặng nề nhất trong hơn 50 năm qua, khiến lượng nước trong các hồ chứa giảm mạnh, ảnh hưởng đến trồng trọt và đe dọa nguy cơ thiếu điện nghiêm trọng trong mùa Hè này.

Theo thống kê, từ tháng Giêng đến tháng Tư năm nay, lượng nước mưa tại lưu vực sông Dương Tử - con sông dài nhất và có ý nghĩa kinh tế quan trọng nhất ở Trung Quốc - đã giảm hơn 40% so với mức trung bình trong 50 năm qua.

Lượng nước mưa ở một số vùng khác cũng thấp hơn 80% so với trung bình hàng năm, trong khi mực nước tại hơn 1.300 hồ chứa ở tỉnh Hồ Bắc đã hạ xuống dưới mức có thể xả nước để phục vụ nông nghiệp.

Các tỉnh An Huy, Giang Tô, Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây, Triết Giang và thành phố Thượng Hải cũng lâm vào cảnh hạn hán nghiêm trọng nhất kể từ năm 1954, khiến nhiều diện tích đất trồng không thể canh tác.

Trên thị trường kim loại, giá đồng Thượng Hải tăng 1,3%. Đồng giao sau 3 tháng tại London cũng tăng giá mạnh.

Thị trường hàng hóa tiếp tục biến động thất thường. Các nhà đầu tư vẫn đang lo lắng về cuộc khủng hoảng nợ tại khu vực đồng tiền chung châu Âu và những dấu hiệu tăng trưởng chậm lại của Mỹ và Trung Quốc, hai nền kinh tế lớn nhất và cũng là hai quốc gia tiêu thụ dầu mỏ hàng đầu thế giới.

Dự báo giá dầu thô tại Mỹ sẽ tăng lên 104,69 USD/thùng, còn dầu Brent sẽ tăng lên 118,43 USD/thùng.

Giá hàng hóa thế giới:

Hàng hóa

ĐVT

Giá

+/-

+/-(%)

+/-(so theo năm)

Dầu thô WTI

USD/thùng

 101,18

 1,59

 1,6%

 10,7%

Dầu thô Brent

 USD/thùng

114,80

 2,27

 2,0%

 21,2%

Khí thiên nhiên

 USD/gallon

4,379

0,034

 0,8%

 -0,6%

Vàng giao ngay

 USD/ounce

1526,70

 3,40

 0,2%

7,4%

Vàng kỳ hạn

USD/ounce

1524,00

-1,75

-0,1%

7,4%

Dollar

 

 75,904

0,022

 0,0%

 -4,0%

CRB

 

344,440

5,340

 1,6%

3,5%

Ngô Mỹ

 US cent/bushel

742,25

 9,00

 1,2%

 18,0%

Đậu tương Mỹ

 US cent/bushel

 1377,00

 4,75

 0,4%

 -1,2%

Lúa mì Mỹ

US cent/bushel

796,50

16,75

 2,2%

0,3%

Cà phê Mỹ

 US cent/lb

 264,85

 3,65

 1,4%

 10,1%

Cà phê London

USD/tấn

2591,00

33,00

+1,29

23,56

Cacao Mỹ

USD/tấn

2962,00

78,00

 2,7%

 -2,4%

Cacao London

GBP/tấn

 2995,00

97,00

+3,35

-1,87

Đường Mỹ

US cent/lb

22,64

 0,73

 3,3%

-29,5%

Đường London

USD/tấn

649,00

25,90

+4,16

 -16,53

Bạc Mỹ

 USD/ounce

 37,642

1,514

 4,2%

 21,7%

Bạch kim Mỹ

USD/ounce

1779,80

17,30

 1,0%

0,1%

Palladium Mỹ

USD/ounce

 747,35

12,10

 1,6%

 -7,0%

Đồng Mỹ

US cent/lb

 410,70

 9,40

 2,3%

 -7,6%

Đồng LME

USD/tấn

 9046,25

 185,25

 2,1%

 -5,8%

 Nhôm LME

USD/tấn

16745,00

 35,00

 +0,21

4,74

Chì LME

USD/tấn

2510,00

-12,00

 -0,48

 -100,00

Nickel LME

USD/tấn

 30,00

 +0,13

24750,00

 -3,23

Thiếc LME

USD/tấn

27850,00

150,00

 +0,54

7,79

Kẽm LME

USD/tấn

2242,00

 -3,00

 -0,13

-12,71

 Nhôm SHFE

NDT/tấn

16745,00

 35,00

 +0,21

16745,00

Đồng SHFE

NDT/tấn

 67820,00

860,00

 +1,28

 

 Thai RSS3 (T6)

USD/kg

 5,10

0

 

 

 Thai STR20 (T6)

USD/kg

4,55

0

 

 

 Malaysia SMR20 (T6)

USD/kg

4,55

0

 

 

 Indonesia SIR20 (T6)

USD/lb

 2,05

0

 

 

(T.H – Reuters, Bloomberg)