(VINANET) – Giá hàng hóa trên thị trường thế giới đồng loạt sụt giảm trong phiên giao dịch đầu tuần 2/6 (kết thúc vào rạng sáng 3/6 giờ VN).

Giá dầu thô trên thị trường thế giới giảm trước một số dấu hiệu cho thấy nguồn cung dầu tăng mạnh.

Dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 7 tại New York giá giảm nhẹ 0,2% % xuống 102,51 USD/thùng, trong khi dầu Brent tại London giảm 0,4% xuống 108,91 USD/thùng.

Một số báo cáo cho thấy nguồn cung dầu từ Angola, Iraq và Libya đang tăng mạnh. Căng thẳng giữa Nga và Ukraine cũng đã lắng xuống trong khi hoạt động sản xuất dầu của Nga vẫn không hề bị ngưng trệ do khủng hoảng với nước láng giềng.

Nguồn cung dầu tại Mỹ tăng mạnh trong thời gian gần đây nhờ sự bùng nổ trong hoạt động khoan dầu. Dự trữ dầu tại Mỹ tăng lên 393 triệu thùng vào tuần trước, gần với mức cao kỷ lục từng đạt được trước đó. Trong khi đó, chi tiêu tiêu dùng lại giảm trong tháng 4, khiến giá dầu giảm thấp trong tuần trước.

Với các sản phẩm dầu mỏ, giá xăng RBOB giao tháng 7 giảm 0,7% xuống 2,9499 USD/gallon và giá dầu diesel giảm 0,4% xuống 2,8773 USD/gallon.

Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm, và đang trong kỳ giảm giádài nhất trong 7 tháng do thị trường chứng khoán liên tục lập kỷ lục mới, thu hút giới đầu tư.

Vàng tại New York giá giảm 2,3 USD xuống 1.244,30 USD/tấn.

Thị trường rất thận trọng trước cuộc họp sắp tới của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và các số liệu kinh tế chính của Mỹ trong tuần. Nhiều người cho rằng, những yếu tố này sẽ giúp vàng tăng giá.

Tại châu Âu, trong cuộc họp chính sách vào ngày 5/6, ECB dự kiến sẽ tung ra gói các lựa chọn chính sách nhằm hướng tới nới lỏng chính sách tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng. Trong khi đó, ngày 6/6, Mỹ sẽ công bố số liệu việc làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp.

Trên thị trường vàng vật chất, nhu cầu vàng cũng rất yếu do giá vàng giảm mạnh khiến các hãng sản xuất trang sức cũng như ngân hàng quay lưng với kim loại này.

Ở Trung Quốc, các ngân hàng đã tích trữ đủ số vàng từ đợt nhập khẩu kỷ lục năm 2013 và đang tìm cách bán tháo lượng tồn kho đó. Thêm vào đó, các thị trường vàng chính ở châu Á như Hồng Kông và Trung Quốc cũng tạm thời đóng cửa các sàn giao dịch để nghỉ lễ trong ngày 2/6.

Tuần trước, các quỹ đầu tư và nhà quản lý tài sản đã giảm đặt cược vào sự tăng giá của vàng. Số hợp đồng vàng kỳ hạn và quyền chọn xuống thấp nhất trong gần 4 tháng, theo Ủy ban giao dịch hàng hóa kỳ hạn của Mỹ.

Với các kim loại khác, giá bạc tăng 0,2% lên 18,71 USD/ounce. Giá bạch kim giao ngày giảm 0,9% xuống 1.431,24 USD/ounce và giá palladium giao ngay giảm 0,3% xuống 829,8 USD/ounce.

Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabica tại New York giảm mạnh phiên giao dịch thứ 2 liên tiếp, do có thông tin cho rằng thiệt hại tại các vùng trồng cà phê do hạn hán tại Brazil ít nghiêm trọng hơn dự báo nhờ những cơn mưa đầu tháng 5. Arabica kỳ hạn giao tháng 7 giảm 2,99% xuống 172,35 cent/lb, kỳ hạn giao tháng 9 giá giảm 2,95% xuống 174,75 US cent/lb.

Giá Arabica giảm 21% từ mức cao nhất 2 năm vào tháng 4, một phần là do tăng kho dự trữ của Mỹ

Trên sàn Liffe tại London, giá cà phê Robusta cũng sụt giảm, với kỳ hạn giao tháng 7, giá giảm 4 USD, tương đương 0,21%, xuống 1.933 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 9, giá giảm 5 USD, tương đương 0,26%, xuống 1.951 USD/tấn.

Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
ĐVT
Giá 31/5
Giá 3/6
+/-
+/- (%)
Dầu thô WTI
USD/thùng
102,71
102,51
-0,20
-0,2%
Dầu Brent
USD/thùng
109,41
108,91
-0,40
-0,2%
Dầu thô TOCOM
JPY/kl
65.950,00
66.220,00
-80,00
-0,12%
Khí thiên nhiên
USD/mBtu
4,54
4,61
-0,00
-0,09%
Xăng RBOB FUT
US cent/gallon
299,80
295,54
+0,55
+0,19%
Dầu đốt
US cent/gallon
288,82
288,02
+0,29
+0,10%
Dầu khí
USD/tấn
893,75
892,00
+0,50
+0,06%
Dầu lửa TOCOM
JPY/kl
80.420,00
80.730,00
-30,00
-0,04%
Vàng New York
USD/ounce
1.246,00
1.244,30
-2,30
-0,02%
Vàng TOCOM
JPY/g
4.084,00
4.101,00
+19,00
+0,47%
Bạc New York
USD/ounce
18,68
18,84
+0,10
+0,54%
Bạc TOCOM
JPY/g
61,40
62,10
+0,60
+0,98%
Bạch kim giao ngay
USD/t oz.
1.451,94
1.438,00
+2,44
+0,17%
Palladium giao ngay
USD/t oz.
836,79
832,95
+0,65
+0,08%
Đồng New York
US cent/lb
312,35
314,90
-2,15
-0,68%
Đồng LME 3 tháng
USD/tấn
6.845,00
6.932,50
+87,50
+1,28%
Nhôm LME 3 tháng
USD/tấn
1.838,00
1.850,00
+12,00
+0,65%
Kẽm LME 3 tháng
USD/tấn
2.054,00
2.083,00
+29,00
+1,41%
Thiếc LME 3 tháng
USD/tấn
23.220,00
23.375,00
+155,00
+0,67%
Ngô
US cent/bushel
465,75
463,75
-1,75
-0,38%
Lúa mì CBOT
US cent/bushel
627,25
623,00
+2,25
+0,36%
Lúa mạch
US cent/bushel
371,00
375,00
+3,75
+1,01%
Gạo thô
USD/cwt
14,99
14,85
-0,02
-0,10%
Đậu tương
US cent/bushel
1.493,25
1.496,75
-3,75
-0,25%
Khô đậu tương
USD/tấn
500,20
505,10
-0,90
-0,18%
Dầu đậu tương
US cent/lb
38,50
38,28
-0,03
-0,08%
Hạt cải WCE
CAD/tấn
464,90
458,00
-3,40
-0,74%
Cacao Mỹ
USD/tấn
3.071,00
3.069,00
-2,00
-0,07%
Cà phê Mỹ
US cent/lb
177,50
172,35
-5,15
-2,90%
Đường thô
US cent/lb
17,38
17,18
-0,20
-1,15%
Nước cam cô đặc đông lạnh
US cent/lb
159,40
160,35
+0,95
+0,60%
Bông
US cent/lb
86,27
87,10
+0,62
+0,72%
Lông cừu (SFE)
US cent/kg
-
-
-
-%
Gỗ xẻ
USD/1000 board feet
312,30
310,20
-0,50
-0,16%
Cao su TOCOM
JPY/kg
192,90
192,40
+1,40
+0,73%
Ethanol CME
USD/gallon
2,25
2,21
-0,02
-0,68%
T.Hải

Nguồn: Vinanet/Reuters, Bloomberg